Lúc khó thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên!

Đại Cồ Việt

......................

Ở đời có ba điều đáng tiếc
Một là việc hôm nay bỏ qua
Hai là đời này chẳng học
Ba là thân này lỡ hư

Chu Hy
......................

Chủ Nhật, 3 tháng 7, 2011

Bệnh nghề nghiệp

Nói một cách hoa mỹ thì là bệnh nghề nghiệp, hiểu một cách đơn thuần là các thói quen, hiểu một cách cực đoan thì là nỗi ám ảnh =)) Thôi thì cứ list ra xem từ rày về sau nó tăng trưởng, thuyên giảm thế nào!

- Đi ô tô giường nằm thường có cảm giác giống như nằm trong quan tài, rất thực!
- Ninh xương nấu phở hay lẩu, đến lúc múc xương ra bát có cảm giác giống như bốc mả, cũng rất thực!
- Ăn lẩu, không rán váng đậu mà chỉ cắt miếng vuông, đến lúc cầm miếng váng phi vào nồi lẩu, cảm giác giống như đang phi vàng mã, thật rất thực!
- Bất kỳ khi nào cầm cái gì dài dài thẳng thẳng, thường có xu hướng cầm bằng 3 ngón cái, trỏ, giữa rồi dựng đứng cái que kia lên, đập đập xuống bàn, rất ngứa tay!
- Khi nhấn Ctrl C, V hoặc một tổ hợp 2 phím nào đó, phím thứ 2 thường bị bấm 7 nhát, rất đều!
- Nhìn thấy gò đất nào cây cối xanh tốt thì không nỡ lòng rời xa
- Khi chọn lựa lộ trình, nếu biết trước, thường thích đi qua bãi tha ma, nhà xác hoặc nơi có đám tang, không quan trọng lộ trình đấy đi đến đâu.
- Nhiều lúc nói chuyện một mình, đừng có dây!
.....

Tạm thế đã

Thứ Bảy, 28 tháng 5, 2011

Ăn

Xưa, thường nghe đến trên đời này có bốn loại sướng. Tứ sướng mà dân gian truyền tụng bao gồm: Ăn, ngủ, đụ và ỉa. Mình không có chuyên môn về ba vấn đề kia, nhưng cũng va vấp ít nhiều về cái chuyện "Thực bất tri kỳ vị". Lại nghe có câu "Dân dĩ thực vi tiên", tức là chuyện ăn uống là quan trọng lắm lắm, trên hết thảy mọi thứ.  Nhân ngày nhàn tháng rỗi, trong lòng có nhiều tâm sự, cũng muốn chia sẻ cùng bàn dân thiên hạ, ấy là về cái chuyện Ăn.

Nay, viết ra bài này, không mong sau này người ta đọc được thì kẻ ăn ngu hóa thành ăn khôn, kẻ ăn chay hóa ra hoàn tục. Chỉ là chuyện mua vui mà thôi, quân tử có dùng dằng thì cứ việc đi, tiểu nhân có nóng mặt thì vô tư mà ngó.


Con người từ thuở sơ khai đã tiến hóa qua nhiều giai đoạn, kèm theo đó cũng là sự phát triển của cái sự Ăn. Người sang, kẻ hèn cũng từ cái cách Ăn uống mà quy ra. Mỹ miều thì "thiết đãi, dự tiệc, thưởng thức"; lịch sự lễ phép thì "dùng bữa, xơi"; bình dân thì " ăn, chiến, chén"; vua chúa thì "ngự thiện", phàm phu thì "xài, đớp, hốc, xực, tọc, tống, dồn, nẫng, hốc, ngoạm, đợp, rỉa, mổ". Tiếng Tây thì gọi là "Eat", tiếng Oa thì gọi là "Tabemasu", tiếng Tàu thì gọi là "Thực"... dù có muôn hình vạn trạng thế nào đi nữa, thì cái hành động chuyển giao thức mà chúng ta ăn được (thức ăn) vào trong bộ nhai để chuẩn bị đi xuống yết hầu, dạ dày, thực quản ... đều cũng chỉ là Ăn.

Ăn cũng chỉ là bước đầu tiên của một quy trình trao đổi chất tuần hoàn. Bởi vậy, mới có thơ như sau:

"Đồng trồng ra lúa
Lúa túa ra cơm
Cơm đơm vào mồm
Mồm tuôn xuống ruột
Ruột thuột ra cứt
Cứt vứt ra đồng
Đồng lại trồng ra lúa"

Tuy nhiên, nếu bỏ qua cái vòng tuần hoàn ấy mà rút gọn, mà giản lược hóa thì không còn gì là tinh túy, là hưởng thụ cả. Ai ai cũng nghĩ rằng cái việc Ăn nó luôn tồn tại và hiện hữu, là cái việc một ngày ta làm đôi ba chục lần thì làm gì mà phải để ý đến. Nhưng mấy ai hiểu được cái tinh túy, cái sâu sa tiềm ẩn trong đó. Duy chỉ có người nào biết cách ăn uống mới là đắc đạo cao nhân vậy. Kẻ sang không phải là do ăn ở nơi lầu son gác tía, kẻ hèn chẳng phải là ăn ở nơi lều tranh vách đất. Phân sang hèn, cao thấp chính là ở cách ăn mà ra. Ăn thì ai chẳng ăn, nhưng ăn có ngon không, ăn có sướng không? Ăn để mà nơm nớp lo sợ, ăn để mà mỡ bụng mỡ gan, để nay cái này co, mai cái kia thắt, ăn như trâu húc mả thì còn gì gọi là ăn.

Xét về mặt khoa học Kim-Cổ, Đông-Tây: Ăn là một công việc, tuy không cần phải lên lưu đồ cụ thể, nhưng cũng cần có những tiêu chí nhất định, ấy là cự li, tốc độ và tư thế.....

Về mặt Địa lý, Phong thủy học. Các cụ đã dạy "Ăn trông nồi, ngồi trông hướng". Nồi là chỉ hướng ăn, ngồi là chỉ hướng ỉa. Nếu như khi ta đi đại tiện, cái hướng của ta bị khống chế bởi cái bồn cầu, khó bề thay đổi thì khi ăn nó lại khác, rất khác. Cái hướng ngồi khi ăn là hoàn toàn ta có thể chọn lọc và điều chỉnh được. Ăn không chỉ đơn thuần là nhai và nuốt. Nâng lên tầm giả dối của nghệ thuật, Ăn còn bao gồm là thưởng lãm "vị", "ảnh" và "hương". Về mặt vị, đến lúc cho vào miệng đôi ba lần mới cảm được rõ nên sẽ nói sau. Còn về chuyện "ảnh" và "hương", ta hoàn toàn có thể điều chỉnh được. Nên chọn hướng ngồi nào mà chiêm ngưỡng được bàn ăn cho trọn vẹn nhất, cho hợp hướng sáng, hợp màu tường, màu quần áo mọi người xung quanh nhất. Nếu như ngồi ăn trên bàn xoay thì khỏi cần chú ý đến góc nhìn vì góc nào nó cũng thế, ta chỉ cần để ý đến cách sắp đặt các đĩa thức ăn mà thôi. Vậy còn chuyện "hương"? Tuyệt nhiên không ngồi trực diện hướng gió mà nên ngồi chệch đi một tẹo, vậy sẽ ngửi được mùi một cách trọn vẹn nhất, không sợ sốc mùi, không sợ no sớm, không sợ ám mùi. Nếu nhà dùng quạt trần thì cũng có thể bỏ qua yếu tố này, vì gió quạt trần rất khó đoán.

Về mặt Vật lý, Động lực học, cũng như tốc độ lái xe vậy, lái nhanh, chậm quá đều tốn xăng, chỉ nên lái bình bình. Ăn có nhai, nói có nghĩ. Nhai kỹ là quay về với Thượng đế, là hòa mình với thiên nhiên, là người và cơm hợp nhất, là cảm nhận tinh tế những phản ứng đang diễn ra. Từng đợt, từng đợt dội lên nhau, điên cuồng mà êm dịu, toàn bộ các giác quan được huy động, không còn phân biệt não trái hay não phải, chỉ còn độ nhịp nhàng giữa hàm trên và hàm dưới, sự tinh tế giữa lưỡi và các tuyến nước bọt, sự co giãn của cơ vòm họng, yết hầu và cả cách mà hai cánh mũi nở căng để đón nhận những làn hương mới. Ôi thật tuyệt, thật tuyệt. Con người thì ăn chậm, nhai kỹ; con vật thì ăn nhanh, nuốt vội. Con người ăn ít nhưng để no lâu, con vật thì ăn nhiều, nhưng để chống đói.

Về mặt Y học, Thẩm mỹ học. Phàm là con người khỏe mạnh bình thường thì cái dáng ăn cũng phản ánh sức khỏe và cả tính cách. Người khỏe mạnh thì ngồi ăn mà mặt mày tươi tỉnh, rạng rỡ. Kẻ ốm yếu thì ủ rũ, ê chề. Hai mạch Nhâm, Đốc cũng là mấu chốt cho việc ăn có ngon, uống có tuyệt hay không. Khi ta chỉ chăm chăm gắp thức ăn, tức là cơ thể ta bị lệch. Tuyệt đối kiêng kỵ chuyện nhồm người hoặc ngồi xổm vào giữa mâm cơm mà khiến cho kinh lạc bị o bế, trì trệ. Ngồi ăn phải ung dung thư thái, đĩnh đạc thong thả. Ngườ quân tửi biết cách phải điều hòa nhịp thở, ra vào đều đặn, gắp nhai nhịp nhàng, nuốt ngừng đúng lúc. Kẻ phàm phu chỉ biết hùng hục gắp khiến mồ hôi nhễ nhại, tổn hại thâm tâm. Ấy là chưa biết cách, chẳng những không no, không khoái mà còn bị người đời chê cười, đàm tiếu. Vậy mới có câu :"Miếng ăn là miếng nhục". Không chỉ nhục tới mình mà còn nhục lây cho những người xung quanh mình. Vua ăn ngu thì thần nhục, con ăn ngu thì cha nhục, vợ ăn ngu thì chồng nhục, và tất nhiên là chiều ngược lại. Ăn một miếng, tiếng một đời là như vậy đấy, thế nên mới có câu :"Xem việc trong bếp, biết nết đàn bà".


Về mặt Lịch sử, khảo cổ học. Như đã nói ở trên, miếng ăn là miếng nhục. Nhưng ở một góc độ khác, miếng nhục cũng là một cục dinh dưỡng (Hán-Việt: nhục = thịt). Vậy, có những cái tưởng chừng bị người ta chê bai nhưng lại rất thiết yếu. Có những cái tưởng chừng là cao lương mỹ vị, nhưng lại chỉ là đồ bỏ đi. Truyện Trạng Quỳnh ngày xưa có nhắc đến "Món ăn mầm đá", ấy là món chẳng thể ăn được, nhưng nhà Chúa vẫn nhắm mắt mà gặm, đó cũng là vì chữ Nhục. Vậy ngẫm ra, miếng ăn lại càng đúng là miếng nhục!

Về mặt Tâm linh học, để thần thánh hóa chuyện ăn uống, để đa dạng hóa các món ăn, ta hoàn toàn có thể khiến người khác cảm phục và vô hình chung, đẩy cái nhục sang cho họ. Tỉ dụ, bạn là người thích ăn kem, bạn luôn tâm niệm về kem ở trong đầu, và bạn có thể quy bất cứ thứ gì ra kem, ấy là bạn đã thần thánh hóa kem. Khi ăn thịt chó, bạn có thể cũng nghĩ tới kem. Một bát rượu mận rắc vừng rang ở trên khác nào một ly kem trải đầy si rô. Khi bạn cầm bánh đa quệt vào, khác nào khi đang ăn kem ốc quế! Tuy nóng lạnh, ngậy béo khác nhau, nhưng cũng đều tuyệt cả, đố đứa nào dám chửi, dám khinh!

Thêm nữa, về mặt Tâm lý học. Buôn có bạn, bán có phường; ăn uống cũng vậy. Ăn một mình đau tức, chén một mình cực thân. Những kẻ ngồi ăn một mình rồi đi rêu rao chính là những kẻ đang cô đơn đến tột cùng, đang đau tức đến tột độ. Chả vậy mà trong giờ học tiếng Tàu, khi cô giáo hỏi 1 bạn :"Khi buồn em thường làm gì?" Mình lại ngồi và buột miệng theo điệu nhạc :"Khi cô đơn, em thường ăn tiết canh..." Ấy chính là lúc cô đơn, quạnh hiu lắm lắm!

Về mặt Mê tín dị đoan:  Khôn ăn cái, dại ăn nước. Cái là dương, nước là âm. Không bàn đến vấn đề khôn hay dại, chỉ bàn đến chuyện âm dương. Đường đường một đấng nam nhi mà chỉ chăm chăm ăn nước, sẽ bị tích nước nhiều, dẫn đến việc tiểu tiện nhiều. Cơ quan hoạt động quá công suất, lâu ngày dẫn đến khấu hao nhanh chóng, chả mấy chốc mà âm khí lấn át dương khí, ấy chính là vì tham âm mà làm hại dương vậy. Tuy nhiên, cũng đừng ai vì thế mà suy ngược lại chuyện khôn hay dại, vấn đề đó còn tùy thuộc vào vô vàn học thuyết đã đề cập ở trên.


Trên đây là một số quan điểm về sự ăn. Lúc này đây, ắt hẳn tự bạn đã biết việc quan trọng của việc ăn như thế nào, điều mà xưa nay ta vốn coi thường thì lại bao hàm mọi yếu tố tự nhiên của trời đất, của nhân sinh. Các bạn ạ, hạnh phúc thay cho những kẻ luôn luôn đói khát, bởi khi đói khát ta mới biết được niềm vui khi no đủ.


Tóm lại, ăn đúng sẽ suy nghĩ và hành động đúng, ăn một miếng tiếng một đời. Hỡi người trong mộng, anh chỉ mong có một ngày anh và em tay trong tay, vai kề vai, anh sẽ nhẹ nhàng, khẽ khàng và có thể là bẽ bàng nói nhỏ với em:


"Cầm tay em như ăn bì nem gỏi cuốn
Dựa lưng nàng như uống chén rượu ngon"

Tặng các bạn tôi, chúc các bạn từ nay ăn ngon miệng.

 Phật pháp vô biên, nhà chùa không ăn gà rán!
 
Hà Nội, 21/05/2011
Tử Hà

Thứ Hai, 7 tháng 3, 2011

Sứa

Lâu lâu không mạn đàm chuyện mồm miệng, nay nhân ngày nhàn rỗi, trình chư vị một món: Sứa!



Trước hết, tôi xin giới thiệu đôi điều về Sứa, sau là cách sơ chế Sứa rồi đến hai món ăn về Sứa thường gặp là Nộm và Gỏi.

Khi cái rét tháng ba nhường chỗ lại cho những giọt nắng đầu tiên của mùa hạ cũng là lúc từng đàn Sứa rủ nhau vào các vịnh, bãi kiếm ăn. Mùa hạ là mùa Sứa nổi, có lúc cả đàn nổi thành từng tảng, trông cũng không khác hòn đảo con là mấy. Ngư dân vùng Đồ Sơn, Thanh Hóa và Huế vốn đã có thói quen đánh bắt Sứa từ lâu. Loài động vật cùng họ san hô này không chỉ là món ăn lạ miệng mà còn lại rất thích hợp trong mùa nắng nóng với giá cả phải chăng.
Trong các sách Đông y, ta thường bắt gặp Sứa với tên gọi Hải triết (Có một số sách của Tuệ Tĩnh kêu là Thủy mẫu). Da Sứa thường được dùng làm thuốc, gọi là Hải triết bì. Hải triết bì có tính bình, thường được dùng để thanh nhiệt, hóa đàm, trị ho và lao tổn, hoạt huyết, tiêu ứ, nhuận tràng. Một số bệnh như ít sữa, bế kinh, phong nhiệt cũng có thể trị bằng Hải triết.

Sứa có rất nhiều loại, nhưng không phải loại nào cũng có thể chế biến thành món ăn, bài thuốc được. Có những loại chứa độc tố, lại có loại chứa tế bào đốt, làm nguy hại cho người tắm biển. Tuy nhiên, người tiêu dùng thường không phải lo lắng nhiều về vấn đề này. Hầu hết các loại Sứa ở ven biển miền trung nước ta đều có thể chế biến thành món ăn được.

Cơ thể Sứa đa phần là nước. Chính vì vậy khi bắt Sứa lên, người ta thường cắt ra và ngâm trong bể nước muối để giữ nước. Ở một số nơi, người ta thường dùng lá phi lao hoặc lá ổi chà lên bề mặt với hai công dụng chính là bảo quản và tẩy mùi Sứa. Sau khi được chà sát, Sứa thường chuyển sang màu đỏ gạch như ta hay thấy. Tuy nhiên, cũng có một cách chế biến khác, tương tự như làm khô mực. Sứa sau khi bắt lên, phơi nắng khoảng nửa ngày sẽ mỏng lại như tờ giấy. Nếu muốn nhanh hơn có thể cắt thành vài phần rồi đem phơi, nhưng tuyệt nhiên đừng cắt quá nhỏ, cỡ bàn tay là vừa vặn.

Để cắt nhỏ Sứa, thông thường người ta không dùng dao mà dùng một thanh cật tre, chỉ cần khứa nhẹ là có thể cắt như đậu phụ. Một con Sứa thường có hai phần là thân Sứa (còn gọi là tai Sứa) và chân Sứa. Mình Sứa được cắt thành những miếng nhỏ cỡ ngón chân cái, có hình giống chiếc tai nên gọi là Sứa tai. Chân Sứa cũng được cắt nhỏ, gọi là Sứa chân. Trong khi Sứa tai thường trong suốt, ngả màu xanh dương thì Sứa chân lại có màu trắng đục, giòn và gân như sụn nên thường ngon hơn Sứa tai.


Thông thường, người ta thường thưởng thức Sứa qua hai món là Nộm Sứa và Gỏi Sứa.

Nộm Sứa:
Người ta úp một chiếc bát vào trong chậu, xếp Sứa lên trên. Nước Sứa tiết ra sẽ chảy xuống đáy chậu. Bấy giờ đem rải lên mặt một lớp gia vị, kèm thêm lạc rang giã nhỏ, bẹ chuối, ớt, rau răm, rau húng (hoặc có thể thêm xoài xanh, cóc), tất cả đều băm nhỏ. Đó là cách làm đối với Sứa tai, còn đối với Sứa chân, người ta lại có cách khác. Sứa chân thái nhỏ, rửa sạch rồi trộn chung với thịt gà xé hoặc thịt lợn luộc thái mỏng, cũng thêm vào ớt, xoài xanh băm nhỏ, trứng luộc, lạc rang, rau thơm các loại.

Gỏi Sứa:
Gỏi Sứa thì cũng có dăm ba loại. Tuy nhiên cách ăn thường thấy nhất vẫn là ăn kèm với đậu nướng, dừa, kinh giới chấm mắm tôm. Nghe thoáng qua thì y chang Bún đậu mắm tôm vậy, nhưng mà lại khác nhau nhiều lắm đấy nhé! Bún và Sứa đều tính hàn, ăn nhiều thì lạnh bụng. Ấy vậy nên thường ăn kèm với đậu. Tuy nhiên, Bún vốn là thứ dễ tính, đậu luộc cũng được, nướng cũng được mà rán thì lại càng được. Sau khi trần, từng con bún được vớt ra, để hồi lâu rồi mới đến miệng ta ăn, vậy nên ăn với đậu nóng là hợp, thế là bún được ăn với đậu rán, cấm có cãi cọ gì. Vậy còn cái giống Sứa thì sao? Xin thưa là ta đang nói về gỏi, ăn gỏi tức là ăn sống, mà ăn sống thì tuyệt nhiên đừng có dính dáng đến mỡ nóng mà làm gì cả. Người ta ăn tái chanh hay gỏi tôm cũng tuyệt nhiên không dầu mỡ. Giả dụ có dính một chút mỡ nóng của món khác vào thì sẽ hỏng 2 phần. Thứ nhất, phần màng bên ngoài sẽ bị nóng, khi cắn vào đã mất ngon bởi nóng không ra nóng, lạnh không ra lạnh, tựa như đang ăn bát bún riêu nóng hổi mà lại có cục nước đá rơi vào bát vậy, vứt! Thứ hai, gỏi ngon ở chỗ tươi, tươi không chỉ ở vị mà trước nhất là phải ở mùi. Dính dầu dính mỡ vào thì làm sao mà bảo toàn được cái vị của Sứa? Vậy nên đậu rán ở đây là không hợp.

Vậy còn đậu luộc thì sao? Có lẽ, cũng lại là hai vấn đề như đậu rán nhưng hơi khác một chút. Nếu luộc nóng lên thì ăn ngay lúc đấy không được. Nếu luộc trước rồi để nguội thì đậu hỏng, lại cứng, càng không ăn được. Ông bà ta cũng hay, vì hai thằng trên đều là đồ bỏ cả nên mới sinh ra cái anh đậu nướng. Một là nướng rồi để được lâu. Hai là ăn với Sứa lại tôn lên vị Sứa vì cái mùi khói. Tuyệt, quá tuyệt!

Kế đến là dừa và kinh giới. Dừa không non không già. Non thì mềm quá, già thì cứng quá. Nhưng tại sao lại ăn kèm thêm dừa? Xin thưa, phàm cái thừa sẽ bù cho cái thiếu, cái nhiều sẽ bù cho cái ít. Thịt Sứa mềm mà lại thêm dừa cứng, cắn một miếng mà cảm nhận được đôi lần cảm các, decolgen 2,3 lớp cũng đến thế là cùng! Vậy còn cái thức kinh giới kia, thiếu mất nó có ổn chăng? Ôi thôi, nếu không kiếm được kinh giới thì các vị luộc lên chấm gia vị, không thì cho vào tủ lạnh, hoặc bằng vứt cho chó gặm cho rồi, khỏi mang tiếng là ăn gỏi Sứa! Mà có cố ăn thì cũng âu là rước họa vào thân đấy. Vì bản thân Sứa có tính hàn, nên mới phải ăn kèm thêm kinh giới, phần là để cân bằng âm dương, thứ đến là để gây mùi tạo vị, sướng lắm thay.

Đấy, tôi nói đến đây thôi, vị nào mà đọc được, có hứng muốn ăn thì đợi tầm hơn tháng nữa, ra đoạn hàng Chiếu, từ Ô Quan chưởng đi vào thì ở phía bên tay phải có bà cụ bán Sứa cũng khá ngon. Các vị tao nhân mặc khách comple cavat ra đây tọp tẹp đôi miếng cho biết cái mùi đời tí nhể. Còn e ngại quán xá thì ra Ô chợ Dừa mua tí ti về nhà mà chấm mút nhá....

Thực ra còn chuyện người Huế ăn bún Sứa nhưng thôi, xin mạn phép các vị để khi khác, hề hề.

Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010

《见与不见》-It does't matter if you see me or not


你见,或者不见我,
It does't matter if you see me or not,
我就在那里,
i'm standing right there,
不悲不喜;
with no emotion;
你念,或者不念我,
it doesn't matter if you miss me or not,
情就在那里,
the felling is right there,
不来不去;
and it isn't going anywhere
你爱,或者不爱我,
it doesn't matter if you love me or not,
爱就在那里,
love is right there,
不增不减;
and it is not going to change
你跟,或者不跟我,
it doesn't matter if you are with me or not,
我的手就在你手里,
my hand is in your hand,
不舍不弃;
and i am not going to let go
来我的怀里,
let me embrace you,
或者,
or,
让我住进你的心里
let me live in your heart eternity
默然 相爱,
silence love
寂静 欢喜
calmness joy
《班扎古鲁白玛的沉默》
作者:扎西拉姆·多多

Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2010

Chiêm Bao

Đêm qua nằm mộng, đến sáng thức dậy thì vẫn nhớ như in, chuyện cũng chẳng có gì.
Mỗ đi ven bờ sông Hồng, nhưng loáng thoáng sau lưng có bóng thích khách áo đen. Đoạn y định vung gươm ám sát mỗ, bỗng hiện ra một ông cụ vận áo the đỏ, đầu hói tóc hai bên dài, mặt nửa đen nửa trắng hiện ra. ..
Ông cụ tay vuốt râu, tay chắp sau lưng đi lại gần thích khách và nói nhỏ, đại thể là :" Ngươi mà vượt được con sông trước mặt thì ta cho là tài "
Gã thích khách chẳng nói câu gì, đưa mắt liếc ngang rồi từ từ đi về bờ sông. Ông cụ phẩy tay đôi lần, lau sậy đã che khuất gã. Thế là mỗ thoát khỏi họa sát thân./.
Đoạn ông cụ quay lại phía mỗ, đưa cho ba nén vàng rồi bảo đi mà mua đất, mua được cả thần đấy. Vàng chưa trao đến tay thì cụ đã tan vào sương khói, không một chút dấu vết. Mỗ quay lại phía sau thì thấy một gò cát hình con cá ngạc (cá sấu/ cá sú). Nó tự xưng là Hà bá ở sông Hồng (Dù sông Hồng làm gì có cá sấu). Hồi đầu mỗ còn giật mình, sợ nó cạp cho đôi phát thì không còn mạng đâu mà mua nhà mua đất cả. Nó nói lầm rầm mấy câu, mỗ nghe loáng thoáng thì đại ý rằng mình là chủ đất mới, nó ở đây đã lâu, giờ có chủ mới đến nên ra chào. Lộc giời ở đâu mà nhiều thế !
Than vãn một hồi, hóa ra nó nằm yên một chỗ vì mắt bị mờ, nhờ mỗ đến lau hộ. Mình thì bình sinh nhút nhát hiền lành, cũng chẳng dám tin lời nó mà lại gần, thôi thì đứng ở xa lấy chân gẩy gẩy, cát ở mắt nó cũng bay dần . .. Nó lại kể lể về gốc gác. Tổ phụ nó nguyên ở Động Đình Hồ bên tàu, nhưng lưu lạc ra sao mà nó ở đây ngót trăm năm rồi. Giờ có người mới thác, vong ấy hợp với nó nên muốn cậy nhờ để về Động Đình Hồ. Mỗ có hỏi thêm nhưng nó nói lầm rầm không nghe rõ được. . . chỉ thấy cứ quay đầu về hướng bắc, nước mắt nước mũi dàn dụa ra mà khóc. Đoạn gạn hỏi tiếp vong kia là ai thì nó im bặt, lúc bấy giờ chuông đồng hồ kêu, mỗ bật dậy, nửa tỉnh nửa mơ . .. .

Sáng dậy nghe loán thoáng 3 hôm trước có người tự tử phía cầu Long Biên. Thực hư chưa rõ làm sao, viết tạm ra đây phòng sau này quên mất.

Hà Nội, 17/11/2010