Lúc khó thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên!

Đại Cồ Việt

......................

Ở đời có ba điều đáng tiếc
Một là việc hôm nay bỏ qua
Hai là đời này chẳng học
Ba là thân này lỡ hư

Chu Hy
......................

Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2009

Tô Vũ Chế Tạo Sáo Trúc


Tô Vũ Chế Tạo Sáo Trúc



CHƯƠNG I: Vấn đề chế tạo sáo trúc


A - Giai điệu ống sáo

Trong lúc phong trào học nhạc, chơi nhạc lan rộng, vấn đề nhạc cụ đã trở thành một trở lực khá lớn cho việc huấn luyện và phổ biến. Về phía những người hoạt động âm nhạc, trừ một số ít các nhạc sư đóng đô ở một chỗ. Ðối với những người đó, các loại nhạc cụ mảnh dẻ (viomon, guitare ...) hoặc cồng kềnh (violoncelle, piano ...) thật bất tiện cho sự mang đi mang lại. Một mặt khác, những cuộc biểu diễn ngoài trời, dưới đêm sương, trước một khán đài mênh mông nhiều khi đã là những thử thách lớn cho mấy cây đàn xưa nay vẫn quen ăn nói trong phòng khách, trên những sân khấu có đủ trần, phòng hậu, cánh gà để đưa hơi, nâng tiếng. Về phía quần chúng chơi nhạc, học nhạc, thì bất kể loại nhạc cụ nào (đàn dây, đàn gío hay đàn gõ) đều tương đốu đắt tiền, có khi lại khó tìm mua nữa. Một thí dụ: cây đàn guitare thường (mà cũng phải mất công đi lùng mua lấy được mới có) bấy giờ trị giá trên một tạ gạo. Ðể đối phó với tình trạng phiền phức đó, một số người hoạt động nhạc đã có ý kiến đi tìm một loại nhạc cụ thích hợp với hoàn cảnh và trình độ của quần chúng chơi nhạc hiện thời. Và những anh em đó đã nhận định đúng đắn là phải cải tiến và phổ biến ống sáo trúc (gọi là sáo trúc để phân biệt với các loại sáo bằng gỗ tiện hoặc bằng kim khí đúc).

B - Ưu điểm của ống sáo trúc

Ít ra trong hoàn cảnh hiện tại, ống sáo trúc có những ưu điểm rất dễ nhận:
1) Sáo trúc rẻ tiền, có thể làm lấy được, bằng những vật liệu dễ tìm, với những dụng cụ thô sơ
2) Sáo nhẹ, tiện mang đi mang lại. Ðeo dăm chục ống sáo cũng chỉ nặng bằng một chiếc banjo, lại gọn gàng hơn.
3) Sáo có thể rất to tiếng, lại không sợ mưa, nắng, sương, gío. Ðặc biệt chơi ngoài trời, người nghe đông đảo, rất hợp.
4) Tương đối, sáo cũng là một thứ nhạc cụ dễ học, nếu có phương pháp, có thể tự học được.


C - Vấn đề cải tiến ống sáo

Với những khả năng đó, ta quan liện dễ dàng sự hợp thời của việc phổ biến ống sáo. Nhưng khi áp dụng nhận định ấy vào thực hành, việc phục hồi gía trị sáo cổ vấp phải mấy nhược điểm khác:
1) Sáo cổ bán trên thị trường phần nhiều chế tạo cẩu thả, sai tiếng, lại không theo một thanh mẫu nhất định
2) Dù đúng tiếng, sáo cổ cũng khó áp dụng vào việc trình bầy những bài nhạc mới, vì chế tạo dựa trên thanh âm điệu cũ. Nói cụ thể hơn, sáo cổ sáu phím không có bán âm. Muốn thực hiện bán cung, nhạc công phải dùng ngón tay bịt một nửa lỗ. Như vậy, không nói sự khó khăn cho người mới tập, ngay đến người thổi sáo đã thạo, gặp những đoạn nhạc khó, phải chạy nhanh, nhiều lúc cũng chịu không tài nào bắt vừa nhanh (một nửa lỗ) vừa đúng đuợc. Vì đó cần phải cải tiến ống sáo cũ.

D - Ống sáo mới kiểu " Lôi-Tiên 1950 "

Một trong những giải pháp cải tiến sáo tương đối tiện lợi hơn cả (tới bây giờ) là những loại sáo trúc do hai anh Phạm xuân Lôi và Phạm xuân Tiên sáng chế. Chúng ta nhận thấy ở những mẫu sáo đó, ngoài sự khắc phục theo nguyên tắc những nhược điểm cố hữu của sáo cổ, còn có những chỗ dụng công đáng lưu ý.
1) Cách bố trí khoa học các phím để các ngón tay vận động tự nhiên thoải mái
2) Cách trình bầy thứ tự các kiểu sáo, tiện cho việc phổ biến, thí du.
  • Loại sáo bảy phím để cho người mới tập hay người đã quen dùng sáo cổ sửa lại lối bắt ngón tay
  • Loại sáo mười phím cho những người đã quen dùng lối sáo bảy lỗ chuyển sang (hoặc cho những người trình độ chơi nhạc đã khá).
  • Loại sáo co cựa gà cho các em nhỏ hay những người mới học đỡ mệt lúc ban đầu...

 

 


E - Vấn đề chế tạo sáo mới

Ý kiến chung của nhiều người (chuyên môn hoặc không chuyên môn về nhạc) đã nghe, dùng hoặc thí nghiệm sáo "Lôi Tiên 1950" đều hoan nghênh sáng kiến đó và mong muốn sự phổ biến nó trên một qui mô rộng rãi. Nhưng nhìn vào thực tế, số sáo mới đã hoàn thành hoặc đã phát hành còn quá ít ỏi đối với nhu cầu của phong trào.

Trước nạn "khủng hoảng" thiếu đó, với sự tán thành và giúp đỡ trực tiếp (về ý kiến cũng như trong các thí nghiệm) của hai anh Lôi Tiên, chúng tôi mạnh dạn trình bầy một ít kinh nghiệm về phương pháp chế tạo sáo trúc.

Mong các bạn xa gần có lưu tâm tới vấn đề, góp ý thêm hoặc bổ khuyết, sửa chữa những chỗ sai lầm, thiếu sót. Một mặt khác, vì nhằm mục đích thực hành và phổ biến, chúng tôi đã giản dị hóa rất nhiều khi nói tới lý thuyết khoa học về âm thanh cũng như khi áp dụng hay suy diễn các công thức một cách... chủ quan. Mong các nhà khoa học cũng lượng thứ.


CHƯƠNG I I: Phần lý thuyết về Sáo


A - Bộ phận ống sáo

Sáo trúc là một nhạc cụ hết sức giản dị, thành phần nó gồm vỏn vẹn:
1. Một ống rỗng lòng. Trên thân ống, ở một đầu, là lỗ thổi. Theo một hàng dọc cùng hàng với lỗ thổi, ở đầu kia, là môt chuỗi những lỗ phím.
2. Trong lòng ống, sát mép lỗ thổi, phía không có phím, có một cái nút:

st1.jpg


 









 

B.- Cách phát thanh và âm thanh ống sáo

Muốn thổi sáo thành tiếng, nhạc công cầm ngang thân sáo, dựa mép lỗ thổi vào môi dưới, xếp hai môi một cách thích hợp và "tia" hơi thổi vào bờ lỗ sáo đối diện với môi. Muốn thay đổi cao độ tiếng sáo, có hai cách:
1. Thay đổi cường độ (sức mạnh ) tia hơi thổi. Thí dụ: khi bịt các lỗ phím và thổi nhè nhẹ đủ để phát ra tiếng, sáo cho nốt Do4; thổi mạnh hơn, sáo sẽ nảy ra tiếng Do5; mạnh hơn nữa âm thanh phát ra sẽ là Sol5....
2. Thay đổi cách bịt các lỗ phím. Thí dụ: Ta đánh số các lỗ phímtheo thứ tự như hình vẽ. Bịt cả bảy phím, sáo cho âm thanh cơ bản của sáo (nốt trầm nhất) khi ta thổi đủ phát thành tiếng. Vẫn giữ nguyên cường độ tia hơi đó, ta buông phím 1: âm thanh phát ra sẽ cao hơn nốt cơ bản. Buông thêm phím 2, âm thanh phát ra lại cao hơn lên một nậc nữa, và cứ cao lần lên mãi tới khi ta buông cả bảy phím. Nếu ta bịt lại tất cả các phím để lại mở dần từng phím theo thứ tự như trước: 1, 2, 3, 4... trong khi ta tăng cườngđộ tia hơi thổi lên, sáo sẽ cho một chuỗi âm thanh giống như chuỗi âm thanh trước nhưng cao hơn một bát độ (octave). Chẳng hạn với tia hơi nhẹ, ta có chuỗi âm thanh: Do4, Ré4, Mi4, Fa4, Sol4 La4, Si4, với tia hơi mạnh ( cũng theo thứ tự mở phím )ta có thể có: Do5, Re5, Mi5, Fa5, Sol5, La5, Si5....


C.- Lý thuyết âm nhạc úng dụng vào sáo

Vật lý học đặt âm thanhvào loại những hiện tượng tuần hoàn cũng như ánh sáng, đìện. Nguyên nhân phát sinh âm thanh là những chấn động, điều mà ta có thể xác nghiệm một cách thô sơ bằng cách sờ một ngón tay vào dây đánđang rung thành tiếng.. Một đặt tính căn bản của âm thanh, cao độ, có quan hệ trực tiếp với tần số những rung dộng của vật phát ra âm thanh trong một thời gian nhất định. Nếu ta lấy ta lấy đơn vị thời gian là một giây đồng hồ thì số những âm ba (rung động) của mõt âm thanh a nào đó phát ra trong khoảng thời gian đó gọi là tần số âm a (fréquence).
Áp dụng nhận thức ấy vào ống sáo, có mấy điểm ta nên lưu ý:
1. Nguyên nhân sự phát ra âm thanh của ống sáo là do cot không khí trong ống sáo rung động và không phải do thân ống sáo rung.
2. Ðộng cơ sự rung động là tia hơi từ môi dập vào bờ lỗ thổi rồi tỏa ra, phần ra ngoài và phần vào trong lòng ống sáo, tỉ như luồng sóng thác xô vào ghềnh đá làm nước chung quanh chổ đó cuộn xoáy lên. Tia hơi có thể làm rung động một cựa gà để cựa gà truyền rung động sang không khí trong ống (trường hợp sáo cựa gà).
3. Cao độ những âm thanh của sáo do hai điều kiện quyết định: Cường độ tia hơi thổi và Kích thước ống sáo.
a. Cường độ: Luật các họa thanh ( harmonique ). Âm học cho ta biết là những âm thanh do các nhạc cụ phát ra không phải là những đơn âm (monophonique) mà là những đa âm (polyphonique) tức là các đơn âm hợp lại. Nếu ta thí nghiệm bật một giây đàn cho nảy thành tiếng và chú ý lắng tai nghe, thì ngoài âm thanh chính, trầm nhất, thanh cơ bản, còn nghe thấy những hòa thanh, tức là những âm thanh mà tần số là những bội số (multiple) của tần số cơ bản. Thí dụ ta gảy giây La của đàn ghi ta thi ngoài nốt La2 cơ bản ta có thể nghe thấy nhỏ hơn những âm thanh La3, tần số gấp đôi La2, Mi3 (tần số gấp ba La2), La4 (tần số gấp tư La2) và có thể tới Do4 (tần số gấp 5 La2)...Vậy sự gia tăng cường độ tia hơi thổi có thể coi như có hiệu lực là làm trổi lên, lần lần, những hoà thanh cơ bản của ống sáo. Nếu như tần số âm cơ bản là n, thì những hoà thanh xếp theo thứ tự sẽ có những tần số 2n, 3n, 4n, 5n... Thực tế ra, cường độ của tia hơi chỉ tới mõt mức nào thôi. Vì vậy nếu tương đối những họa thanh 2n, 3n có thể đạt được dễ dàng, những họa thanh 4n,5n rất khó thực hiện và coi như ở ngoài tầm giọng (étendue).
b. Kích thước ống sáo: Ðịnh luật Bernoulli. Ðịnh luật nói cho ta biết tương quan giữa kích thước ống sáo và cao độ của âm thanh cơ bản bằng phương trình:
L = V / 2n L = chiền dài ống sáo
V = tốc độ truyền âm trong không khí
n = tần số của thanh cơ bản
Suy diễn công thức Bernoulli, ta thấy mấy điểm:
  • Chất ống (nguyên liệu làm sáo) không ảnh hưởng gì đến cao độ của âm thanh.
  • Chiều dài ống sáo tỉ lệ đảo với tần số âm thanh. Ống càng dài, âm thanh càng thấp, ống càng ngắn, âm thanh càng cao. Ðối chiếu với cách phát thanh của sáo, ta có thể coi ống sáo là áp dụng của công thức Bermoulli mà những lỗ phím là những nấc rút ngắn dần chiều dài ống sáo lại, để âm thanh cao mãi lên.




Chỗ khó cho công việc làm sáo là cách tính kích thước sáo nghĩa là chiều dài sáo và chiều dài các phím. Về chiều dài óng sáo, công thức Bernoulli sẽ giúp ta tính dễ dàng nếu ta biết tốc độ truyền âm V và tần số thanh cơ bản n. Về chiều dài các phím, nếu ta coi mỗi phím là một ống sáo rút ngắn, ta co thể suy ra:
So sánh hai ống L và L'
st2.jpg








Như thế chiều dài L' của phím sáo có thể tính ra khi ta biết chiều dài L của sáo và tỉ số n' / n của tần số n' âm thanh phím và tần số n thanh cơ bản
 

CHƯƠNG I I I: ÁP DỤNG CÔNG THỨC BERNOULLI VÀO CÁCH TÍNH KÍCH THƯỚC SÁO - THỰC NGHIỆM


A. Tính chiều dài ống sáo ( phát thanh cơ bản )

Cho được cùng chung một ý, chúng ta lấy tốc độ trung bình của V là 340m/sec ( sự thật, V, vận tốc truyền âm trong không khí thay đổi ít nhiều, tùy theo nhiệt độ không khí ) và tính các tần số tương đương với thanh mẫu La3 = 435. Vậy muốn có một ống sáo phát thanh cơ bản La3 = 435 ta phải có một ống sáo dài:

st4.jpg




Ảnh hưởng của đường kính ống sáo ( thực nghiệm )
Nếu ta cắt ống sáo theo bình diện thẳng góc với trục ống sáo, thiết diện (bề mặt) ống sáo thường là hình tròn. Ðường kính thiết diện tức là đường kính ống sáo:
 st3.jpg
 






Nếu ta thử lại định luật Bernoulli bằng một số ống đường kính khác nhau nhưng cùng cho một thanh cơ bản, ta sẽ thấy thiết diện có ảnh hưởng rõ rệt tới cao độ cơ bản.
So sánh với một thanh mẫu Hohner phát thanh La4 = 870, đây là một thí dụ về sự thay đổi chiều dài ống sáo theo đường kính: ( Sai số tối đa của cách đo tạm cho một ly ).

st5.jpg












Vậy cứ theo thực nghiệm ta thấy:
Ðường kính thiết diện sáo tỷ lệ nghịch với tần số thanh cơ bản: với một số tần số nhất định, ống càng to bao nhiêu, chiều dài càng ngắn bấy nhiêu. Nói một cách khác: ống càng nhỏ bao nhiêu, định luật Bernoulli càng sát bấy nhiêu. Tóm lại: công thức Bernoulli chỉ cho ta áng chừng chiều dài sáo tương đương với âm thanh cơ bản ta muốn có.


B.Tính phím thứ nhất

Nhắc lại hình thức (2) của công thức Bernoulli:
st6.jpg



Rút ra chiều dài L' của phím thứ nhất ta có:
st7.jpg



Vậy chiều dài L' của phím do chiều dài L của sáo và tỉ số N / n' quyết định.
Ước lệ về N / n' - Thường thường phím thứ nhất của sáo cho các nốt cách âm cơ bản một cung hay một bán cung. Vậy chúng ta cần biết tỉ lệ N / N' của 2 nốt cách nhau một cung và của 2 nốt cách nhau một bán cung. Âm học cho biết tỉ lệ N / N' của một cung có thể là 9/8 (cung majeur) hoặc 10/9 (cung mineur) và của một bán cung là 16/15 (bán cung majeur) hoặc 256/246 (bán cung Pythagore) với điều kiện tần số N > N'.
Những con số đó không được thật chính xác đối với cung bực của âm giai bình hiện nay. So sánh với cung bình, tỉ số 9/8 sai hơn một savart (khoảng 1/50 một cung) tỉ số 10/9 sai 4 savart (1/12 cung), tỉ số 256/243 sai 2 savart (1/25 cung). Nếu ta coi giới hạn tha thứ là 1 commạ (5 savart 39) thì những con số sai trên kia có thể xem như không đáng kể và ta có thể dùng bất cứ tỉ số nào.
Cho nhất định ý kiến và để các con tính đỡ số lẻ, ta có thể đặt ước lệ lấy tỉ số N / N' một cung là 9/8 và của một bán cung là 16/15 trong trường hợp N > N'.
Nếu N < N' tỉ số sẽ đảo ngược lại 8/9 và 15/16.
Vậy cứ theo lý thuyết, nếu ta muốn chẳng hạn, sau thanh cơ bản, sáo phát một nốt cách thanh cơ bản 1 cung, chiều dài phím nốt đó sẽ là:

st8.jpg












Ảnh hưởng đường kính phím (thực nghiệm)
Lấy một ống sáo đã đo thanh cơ bản A. Sau khi tính chiều dài của phím B cách thanh cơ bản (thí dụ) một cung, ta khoét lỗ B và thử âm thanh B, ta sẽ thấy cao độ nốt B thay đổi rõ rệt. Nếu ta khoét lỗ B sấp sỉ bằng thiết diện A sáo, âm thanh B se phát ra cách đúng thanh cơ bản A một cung. Trái lại nếu B < A, âm thanh B' sẽ non hơn B. Và lỗ B càng nhỏ bao nhiêu (đối với A) thì những âm thanh B', B'' phát ra càng non đối với B bấy nhiêu.

st9.jpg












Thứ Năm, 24 tháng 12, 2009

Tìm lại điệu hát Dô xưa

Tìm lại điệu hát Dô xưa

Hát Dô tương truyền là do Đức thánh Cao Sơn, một trong bốn vị thánh linh thiêng nhất ở Việt Nam truyền lại. Trải qua bao biến cố của thời gian, điệu hát Dô ít nhiều đã bị mai một, nhưng nét sinh hoạt văn hóa này vẫn được người dân xã Liệp Tuyết, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây lưu giữ và coi đây là một món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống…
Thời xa xưa, điệu hát này thường được biểu diễn trong cung đình, phục vụ vua chúa. Song do lời hát mộc mạc, thanh cao nên rất gần gũi với dân gian. Lối hát cổ truyền gồm 36 làn điệu. Học đủ các làn điệu đó đòi hỏi người học phải có sự say mê, kiên trì. Hội hát Dô cứ 36 năm mới tổ chức một lần nên người biết và dự hội không nhiều, số người nắm rõ 36 làn điệu rất hiếm và nay thường già cả trên 70 tuổi… Trước đây, hát Dô vào ngày thường được coi là điều cấm kỵ.


Đền Khánh Xuân thực sự trở thành nơi sinh hoạt văn hóa của xã Liệp Tuyết


Chị Nguyễn Thị Lan (ngoài cùng bên trái) thu thập điệu hát từ các cụ cao tuổi

Liệp Tuyết vào những ngày hội trở nên náo nức lạ thường. Giữa sân đền Khánh Xuân thoảng mùi hương thanh tịnh, chị Nguyễn Thị Lan có thâm niên hơn chục năm làm Chủ tịch Hội Phụ nữ xã say sưa cùng các cháu nhỏ vừa hát vừa biểu diễn các làn điệu hát Dô dí dỏm, vui tươi. Nào là điệu "Trúc mai" trữ tình, điệu "Lên chùa" vui và thiêng liêng, điệu "Muỗi đốt tứ tung" đầy tính dân gian. Chị Lan quyết tâm đưa điệu hát Dô trở thành một nét sinh hoạt văn hóa thường nhật của người dân xã Liệp Tuyết.
Để làm được điều này, chị đã phải vượt qua biết bao gian lao, thử thách do những quan niệm và cách suy nghĩ của người xưa về điệu hát. Không những thế, cuộc sống của người dân nơi đây còn thiếu thốn, người trẻ lại không biết nhiều về điệu hát, cho nên việc lấy người vào đội hát rất khó khăn. Ngoài ra, công việc thu thập lời hát mất rất nhiều thời gian và công sức.


Trang điểm chuẩn bị biểu diễn


Truyền lại kinh nghiệm
Tuy nhiên, nhờ sự kiên trì, cuối cùng chị cũng đã tập hợp được đội hát và đặc biệt là sự hưởng ứng của các cụ già trong làng tham gia vào việc truyền dạy cho thế hệ con cháu. Chị Lan may mắn được cụ Đàm Thị Điều cho đến nhà học đủ 36 làn điệu trong suốt 4 tháng trời. Kể từ năm 1998 tới nay, chị Lan liên tục mở các lớp học hát Dô và thu hút được rất nhiều người theo học trong đó có cả trẻ em. Và cũng năm này, Câu lạc bộ hát Dô xã Liệp Tuyết được thành lập
Không chỉ hát lời cổ, các thành viên Câu lạc bộ còn đặt lời mới cho những làn điệu hát Dô cổ truyền, tạo nên sự gần gũi, hấp dẫn đối với người nghe. Từ Câu lạc bộ đã xuất hiện các nghệ sĩ, diễn viên chuyên nghiệp. Người hát Dô chuẩn thì không chỉ cần biết hát chay mà phải vừa hát vừa múa, dân gian thường gọi là "Hát Dô chèo tàu". Với những đóng góp đó mà Câu lạc bộ Hát Dô đã được tôn vinh là "địa chỉ Văn hóa" và điệu hát trở thành một trong sáu bộ môn nghệ thuật truyền thống của xứ Đoài.

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2009

Điển tích Phật giáo trên đồ sứ ký kiểu

Vào giữa thế kỷ XVI đến gần cuôi thế kỷ XVIII, các chúa Nguyễn truyền nối nhau cai trị đất Đàng Trong. Dựa theo truyền thống “Cư trần lạc đạo” thời Lý-Trần, các chúa Nguyễn chu trương “cư Nho mộ Thích” để ổn định tâm lý xã hội đẩy mạnh việc phát triển đất nước ở phương Nam. Vào thời này, đạo Phật được triều đình lẫn quần chúng nhân dân tích cực ủng hộ. Các ngôi chùa được sắc tứ vào thời chúa Nguyễn cho đến nay vẫn còn như: chùa Thiên Mụ (Huế) chùa Tam Thai (Ngũ Hành Sơn - Đà Nẵng) chùa Thập Tháp Di Đà (Bình Định)…


Chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725) là người thuần tín Phật giáo, ông quy y Phật, đạo hiệu là Thiên Túng Đạo Nhân. Vì thế khi sáng tác thơ văn, ông thường ghi ba chữ Đạo Nhân thư ở cuối tác phẩm. Và, từ đó các tác phẩm văn học Phật giáo đều được ông đặt ký kiểu trên đồ sứ Trung Quốc, nhiều nhất là vào năm 1701.

Đồ sứ ký kiêu của chúa Nguyễn Phúc Chu chủ yếu là các loại tô, dĩa đựng thức ăn, dụng cụ dùng để uống trà, thường có hiệu đề “Thanh Ngoạn” viết theo lối chữ Triện, với đề tài ký kiểu thường là phong cảnh sơn thủy, chùa tháp cùng các bài thơ vịnh phong cảnh non nước ở xứ Đàng Trong. Những ngôi chùa mà ông đã từng đến chiêm bái và có thơ ca ngợi vẻ đẹp nơi ấy đều là đề tài lớn trong sản phẩm ký kiểu còn tồn tại đến ngày nay.

Chiếc dĩa trà vẽ cảnh chùa Thái Bình ở núi Tam Thai (Ngũ Hành Sơn - H.1).


H.1

Một sản phẩm ký kiểu khác mang ý nghĩa giáo dục Phật giáo hết sức thiết thực mà các đời chúa Nguyễn đặt ký kiểu nhằm giáo dục trong nhân dân đoàn kết và sẻ chia, đo là chiếc dĩa vẽ tích “Hòa hợp nhị Thánh”, niên đại thế kỷ XVIII (H.2).


H.2

Theo truyền tích Trung Hoa, vào đời nhà Đường có hai nhà sư tên Hàn Sơn và Thập Đắc là bạn đồng tu tại chùa Quốc Thanh. Sau một thời gian xa cách, Thập Đắc đi đến Tô Châu tìm Hàn Sơn. Nghe tin bạn đến, Hàn Sơn vội bẻ một cành hoa sen đang nở làm vật đón bạn. Gặp nhau hai người vô cùng hoan hỷ, Hàn Sơn lấy hoa sen phủi bụi trên áo cho Thập Đắc. Thập Đắc mở bình bát mới khất thực được mời Hàn Sơn cùng ăn. Về sau hai người cùng về ẩn tu ở Hàn Sơn tự, thường cứu giúp, hóa độ quần chúng. Do cảm niệm ân đức của Hàn Sơn và Thập Đắc cùng phong thái tự tại giải thoát nên dân gian thường vẽ hình ảnh Hàn Sơn tay cầm hoa sen, Thập Đắc tay cầm bát cơm ngụ ý sự chia sẻ và hòa hợp. Đến đời Ung Chính nhà Thanh, vua Ung Chính hạ chiếu phong Hàn Sơn là Hòa Thánh, Thập Đắc là Hợp Thánh, cho nên bức họa thường đề là “Hòa hợp nhị Thánh”.

Chiếc dĩa vẽ tích “Huệ Khả cầu an tâm” (H.3) miêu tả Tổ sư Bồ Đề Đạt Ma đang tọa thiền bên động Thiếu Thất ở Tung Sơn. Trên cầu đá ở ngoài trời sư Huệ Khả đứng quay mặt nhìn vào.


H.3

Chiếc dĩa (H.4) vẽ toàn cảnh biển Tư Hiền (trước kia là Tư Dung - Huế). Tư Hiền là cửa biển quan trọng của vùng Thuận Hóa xưa. Thuở ấy chúa Nguyễn Phúc Chu vân du nơi này thấy cảnh non hữu tình nên cao hứng đọc lại bài thơ Tư Dung vãn của Lộc Khê Hầu Đào Duy Từ (1572-1634) một công thần của chúa Nguyễn Phúc Chu nên về sau đặt vẽ ký kiểu toàn cảnh biển Tư Dung và đề thơ Nôm phía sau: “Một bầu riêng rẽ thú yên hà/Nghi ngút hương bay cửa Đại La/Ngày vắng đỉnh đang chuông Bát nhã/Đêm khuya dắng dỏi kệ Di Đà/Nhặt khoan đàn suối ban mưa tạnh/Eo óc cẩm ve thuở ác tà/ Mựa rằng đạo xa hòa nhọc kiếm/Bồ Đề kết quả ở lòng ta”.


H.4



Giới sưu tập đồ sứ ký kiểu hẳn đều phải để ý đến chiếc dĩa vẽ cảnh Quốc sư Pháp Thuận đời Tiền Lê giả làm người chèo đò đón sứ giả nhà Tống là Lý Giác qua sông Sách. Sách Đại Việt sử ký toàn thư ghi lại: Năm 987 niên hiệu Thiên Phúc thứ 8, triều Tống cử sứ giả Lý Giác sang nước ta. Để có người đủ trình độ theo dõi và ứng đối sứ thần, vua Lê mời sư Pháp Thuận giả làm người chèo đò ở sông Sách. Lúc thuyền qua sông, Lý Giác nhìn cảnh sông rất đẹp lại có thêm hai chú ngỗng đang bơi rất thản nhiên nên liền cao hứng ngâm: Nga nga lưỡng nga nga/Ngưỡng diện hướng thiên nha. Ngâm tới đây thì ông lão chèo đò cất giọng ngâm tiếp: Bạch mao phô lục thủy/Hồng trạo bãi thanh ba. Nếu hợp lại bốn câu thì thành một bài thơ tuyệt tác. (Tạm dịch: Song song ngỗng một đôi/Ngửa mặt ngó ven trời/Lông trắng phơi dòng biếc/Sóng xanh chân hồng bơi). Lúc bấy giờ, sứ thần Trung Quốc nghĩ nước Nam thật lắm người tài. Chỉ một lão chèo đò mà kiến thức uyên thâm như thế thì người trị vì há chẳng hơn sao! Liền lui về nước Tống trình báo hoãn binh. Về sau, các chúa Nguyễn thường vẽ ký kiểu trên đồ sứ để lưu truyền về chuyện sư Pháp Thuận và sứ thần Lý Giác (H.5).



H.5

Ngoài những đồ sứ được ký kiểu ở thơi chúa Nguyễn Phúc Chu, từ thế kỷ XVIII đến thế kỷ XIX triều Nguyễn cũng xuất hiện nhiều đồ sứ ký kiểu vẽ đề tài Phật giáo. Chiếc dĩa (H.6) hiệu đề “Tân Sửu niên chế” vẽ toàn cảnh chùa Bạch Tự với thơ đề: Đăng đạo bàn hư không/Đăng lãm ấp vô cùng/Lệ cảnh vu thành mãn/Nghiễm nhập họa đồ trung. (Tạm dịch: Bậc đá quanh co đến cõi không/Lên cao mắt thấy thật vô cùng/Khắp nơi cảnh đẹp, thành hoang vắng/Người nhập vào tranh thỏa ước mong).



H.6

Chiếc dĩa (H.7) vẽ toàn cảnh chùa Thánh Duyên ở núi Thúy Vân,Thừa Thiên- Huế, trên dĩa đề thơ vịnh của vua Thiệu Trị (1804-1847) “Tuệ phong chung độ u lâm hưởng/Không vũ hương la pháp hải lân/Thụ luyến từ đàm phù bịch lạc/Kinh xuyên Tăng kịch tạp hồng trần. (Tạm dịch: gió thiền chuông điểm rừng sâu dội/Cõi diệu hương đưa biển Pháp nhuần/ Cây vướng mây lành lên cảnh Bụt/Đường xuyên guốc sãi lấm hồng trần).



H.7
Hoặc chiếc dĩa (H.8) bên phải vẽ tòa lâu đài ẩn dưới bóng trúc u nhã. Ngoài cổng đề bốn chữ “Phong nguyệt vô biên”. Bên trên vẽ cảnh “Phi Lai tự” và bên cạnh chiếc cầu vẽ một nhà sư và đạo sĩ vái chào nhau. Tương truyền vào đời Tấn (Trung Quốc) có nhà sư Huệ Lý, trong luc du sơn ngoạn thủy thấy phong cảnh nơi đây giống như ngọn núi Linh Thứu bên Thiên Trúc (Ấn Độ). Cho rằng núi này từ Thiên Trúc bay sang Trung Quốc nên sư đặt tên là Linh Thứu sơn rồi lập chùa Phi Lai ở ẩn tu hành.



Xuyên suốt quá trình lịch sử hơn 2.000 năm kể từ khi du nhập Việt Nam, Phật giáo đã để lại nhiều dấu ấn lịch sử, văn hóa trong đời sống dân tộc. Trong đó, đồ sứ ký kiểu các điển tích Phật giáo hiện còn là một trong những di vật quý giá cần được bảo tồn.



Đĩa trà vẽ cảnh Chùa Bạch Tự, hiệu đề Bích Ngọc.







Khái quát nghệ thuật Ca trù

Ca trù là một môn nghệ thuật lâu đời, tồn tại ít nhất cách đây 700 năm (Có tài liệu cho rằng hơn 1000 năm). Trước đây, Ca trù được coi là một môn nghệ thuật tao nhã, sang trọng và kén người nghe. Sau một thời gian bị lãng quên hơn nửa thập kỷ, Ca trù đã dần hồi sinh. Bài viết dưới đây nhằm giới thiệu những nét sơ lược về bộ môn nghệ thuật Ca trù !




1. Tại sao gọi hát ả đào là Ca trù?


Sách ca trù bị khảo : Ở cửa đền ngày xưa có lệ hát Thẻ gọi là Trù, làm bằng tre ghi

chữ đánh dấu, dùng để thưởng Ả đào thay tiền mặt. Khi hát quan viên thị lễ chia ngồi

hai bên, một bên đánh chiêng và một bên đánh trống. Chỗ nào Ả đào hát hay bên

trống thưởng một tiếng chát, bên chiêng thưởng một tiếng chiêng rồi thưởng luôn một

cái Trù. Đến sáng đào nương cứ theo trù thưởng mà tính tiền, ví dụ được 50 trù,mà trị

giá mỗi trù ấn định là 2 kẽm tiền, thì làng phải trả cho 10 quan tiền . Vì thế hát ả đào

gọi là Ca trù, nghĩa là hát thẻ.


2 . Vì sao gọi người hát là Ả đào ? 




Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ : Đời Vua Lý Thái Tổ ( 1010-1028) có người ca nhi

là Đào thị tài nghệ giỏi và hát hay, từng dược nhà vua ban thưởng. Sau người ta một

danh tiếng Đào thị nên con hát đều gọi là Đào Nương

Sách Công Dư Tiệp Ký : Cuối đời nhà Hồ (1400-1407) có người ca nhi họ Đào, quê ở

làng Đào Đặng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được nhiều binh sĩ nhà

Minh, cứu cho khắp vùng yên ổn. Khi nàng chết dân làng nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn

nàng ở là thôn Ả Đào. Về sau những người làm nghề ca hát như nàng đều gọi là Ả

đào. Ả đào là thành viên quan trọng của tiệc ca trù, vai trò của ả đào là làm ca sĩ cho

tiệc hát nhưng khác với các ca sĩ khác là vừa hát vừa gõ phách.


4 . Giáp Phường là gì ?


Ngày xưa Ả đào và kép ở chung phường xóm để luyện hát múa cho tiện, chổ ả đào

ở gọi là Giáo Phường nghĩa là phường xóm dạy những người đi hát. Giáo phường là

một tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ.

Sách Đường Thư : Đời nhà Đường ( 618_906) đặt chức quan Tả, Hữu Giáo Phường

chuyên trông coi việc ca xướng, lại đặt chức Trung quan để cai trị các Giáo Phường.

Sách Khâm Định Việt Sử : Năm Hồng Đức thứ 2 (1471) vua Lê Thánh Tông đặt quan

Ty chính để trông coi các Giáo Phường . Năm Vĩnh Tộ nguyên niên (1620) vua Lê Thần

Tông định lại thuế lệ, những người trai tráng khoẻ mạnh mà không đi tòng quân mỗi

năm phải đóng thuế 3 quan tiền : Tăng đạo và Giáo Phường mỗi người phải đóng

thuế một quan tiền.

Sách Lịch triều hiến chương : Đời nhà Lê, ngày sinh nhật vua Giáo Phường tấu khúc

nhạc Văn Quang ở trên điện Vạn Thọ. Khi Hoàng tử lên ngôi, Giáo phường tấu khúc

nhạc Thanh thiều ở trước sân rồng.


4. Vì sao người chơi đàn gọi là kép ?



Sách Khâm định Việt Sử : Năm Thuận thiên thứ 16 (1025) vua Lý Thái Tổ đặt chức

giáp cho bọn ca nhi. Sau những người gẩy đàn giỏi và có tín nhiệm được cử ra trông

coi trật tự ở Giáo Phường, gọi là Quản Giáp. Quản giáp phiên âm chệch ra thành

tiếng Kép. Sách Vũ trung tuỳ bút, thiên nhạc biện, gọi Quản Giáp là kép, Đào nương

là Cô đầu . Sách ở Giáo Phường ngày xưa cử đào kép đi hát các đình đàm đều viết

Giáp là Kép. Đào là Cô Đầu.



5. VÌ sao gọi là Đàn Đáy :




Sách Ca trù bị khảo : Khi hát ở cửa đền, người kép lấy lụa đeo đàn vào người để

đứng mà gẩy cho đỡ mỏi nên gọi là đàn Đáy. Tiếng đáy do chữ Đới nghĩa là đeo,

phiên âm chệch ra.

Sách Vũ Trung tuỳ bút : Mỗi khi người Quản Giáp đến Nhạc Đường, lấy cái khăn

nhiễu điều quang vào lưng để đeo đàn đáy đứng gảy, cùng ả đào xướng họa theo

với điệu hát lên xuống mà đàn ứng theo.

Truyện đất Tổ : Đời nhà Lê, Đinh lễ chế ra một cái đàn không có đáy để gẩy theo

điệu hát ả đào,khúc hát cuồn cuộn như nước chảy ra biển không đáy. Sau người ta bỏ

chữ không, chỉ còn chữ đáy nên gọi là đàn đáy.



6. Vì sao người đánh trống gọi là Cầm chầu ?


Sách Ca trù bị khảo : Theo Lê triều hội Điển Khi triều đình đại lễ có đặt một viên Tửu

Lệnh và một viên Cổ lệnh. Viên Tửu Lệnh phải am hiểu lễ nghi, tay cầm gươm để

trông coi nhân viên hành lễ. Viên cổ lệnh phải tinh thông âm nhạc tay cầm dùi trống

để điều khiển nhã nhạc.

Đến khu Chúa Trịnh cầm quyền, trong phủ lục yến ẩm có ban Nữ nhạc giúp vui. Chúa

cử một viên quan tinh thông âm nhạc làm chức Cổ lệnh. Viên cổ lệnh tay cầm dùi

trống đứng ở sân chầu, đánh trống ra hiệu lệnh cho bọn Nữ nhạc múa hát, hay dở

được quyền thưởng phạt. Vì viên Cổ lệnh cầm dùi trống đứng ở sân chầu đánh trống

nên người ta gọi người đánh trống là Cầm chầu hay Đánh Chầu.



7. Vì sao gọi người đi nghe hát là Quan Viên ?



Sách Ca trù bị khảo : Lệ xưa con các quan từ Án sát trở lên, dẫu không đỗ đạt cũng

được triều đình tặng cho Ấm tử. Chức Ấm tử được miễn hết sưu thuế, tạp dịch. Con

các quan Phủ, Huyện gọi là Quan Viên tử, được miễn tạp dịch trong làng. Người ta gọi

người nghe hát là Quan Viên có ý ám chỉ đó là hạng phong lưu công tử.

Lại có thuyết nói Quan Viên là những bậc phong lưu đi du quan thưởng thức.