Lúc khó thì chẳng ai nhìn,
Đến khi đỗ Trạng chín nghìn nhân duyên!

Đại Cồ Việt

......................

Ở đời có ba điều đáng tiếc
Một là việc hôm nay bỏ qua
Hai là đời này chẳng học
Ba là thân này lỡ hư

Chu Hy
......................

Thứ Ba, 22 tháng 12, 2009

Khái quát nghệ thuật Ca trù

Ca trù là một môn nghệ thuật lâu đời, tồn tại ít nhất cách đây 700 năm (Có tài liệu cho rằng hơn 1000 năm). Trước đây, Ca trù được coi là một môn nghệ thuật tao nhã, sang trọng và kén người nghe. Sau một thời gian bị lãng quên hơn nửa thập kỷ, Ca trù đã dần hồi sinh. Bài viết dưới đây nhằm giới thiệu những nét sơ lược về bộ môn nghệ thuật Ca trù !




1. Tại sao gọi hát ả đào là Ca trù?


Sách ca trù bị khảo : Ở cửa đền ngày xưa có lệ hát Thẻ gọi là Trù, làm bằng tre ghi

chữ đánh dấu, dùng để thưởng Ả đào thay tiền mặt. Khi hát quan viên thị lễ chia ngồi

hai bên, một bên đánh chiêng và một bên đánh trống. Chỗ nào Ả đào hát hay bên

trống thưởng một tiếng chát, bên chiêng thưởng một tiếng chiêng rồi thưởng luôn một

cái Trù. Đến sáng đào nương cứ theo trù thưởng mà tính tiền, ví dụ được 50 trù,mà trị

giá mỗi trù ấn định là 2 kẽm tiền, thì làng phải trả cho 10 quan tiền . Vì thế hát ả đào

gọi là Ca trù, nghĩa là hát thẻ.


2 . Vì sao gọi người hát là Ả đào ? 




Sách Việt sử tiêu án của Ngô Thời Sĩ : Đời Vua Lý Thái Tổ ( 1010-1028) có người ca nhi

là Đào thị tài nghệ giỏi và hát hay, từng dược nhà vua ban thưởng. Sau người ta một

danh tiếng Đào thị nên con hát đều gọi là Đào Nương

Sách Công Dư Tiệp Ký : Cuối đời nhà Hồ (1400-1407) có người ca nhi họ Đào, quê ở

làng Đào Đặng, huyện Tiên Lữ, tỉnh Hưng Yên, lập mưu giết được nhiều binh sĩ nhà

Minh, cứu cho khắp vùng yên ổn. Khi nàng chết dân làng nhớ ơn lập đền thờ, gọi thôn

nàng ở là thôn Ả Đào. Về sau những người làm nghề ca hát như nàng đều gọi là Ả

đào. Ả đào là thành viên quan trọng của tiệc ca trù, vai trò của ả đào là làm ca sĩ cho

tiệc hát nhưng khác với các ca sĩ khác là vừa hát vừa gõ phách.


4 . Giáp Phường là gì ?


Ngày xưa Ả đào và kép ở chung phường xóm để luyện hát múa cho tiện, chổ ả đào

ở gọi là Giáo Phường nghĩa là phường xóm dạy những người đi hát. Giáo phường là

một tổ chức của hát ca trù gồm nhiều họ.

Sách Đường Thư : Đời nhà Đường ( 618_906) đặt chức quan Tả, Hữu Giáo Phường

chuyên trông coi việc ca xướng, lại đặt chức Trung quan để cai trị các Giáo Phường.

Sách Khâm Định Việt Sử : Năm Hồng Đức thứ 2 (1471) vua Lê Thánh Tông đặt quan

Ty chính để trông coi các Giáo Phường . Năm Vĩnh Tộ nguyên niên (1620) vua Lê Thần

Tông định lại thuế lệ, những người trai tráng khoẻ mạnh mà không đi tòng quân mỗi

năm phải đóng thuế 3 quan tiền : Tăng đạo và Giáo Phường mỗi người phải đóng

thuế một quan tiền.

Sách Lịch triều hiến chương : Đời nhà Lê, ngày sinh nhật vua Giáo Phường tấu khúc

nhạc Văn Quang ở trên điện Vạn Thọ. Khi Hoàng tử lên ngôi, Giáo phường tấu khúc

nhạc Thanh thiều ở trước sân rồng.


4. Vì sao người chơi đàn gọi là kép ?



Sách Khâm định Việt Sử : Năm Thuận thiên thứ 16 (1025) vua Lý Thái Tổ đặt chức

giáp cho bọn ca nhi. Sau những người gẩy đàn giỏi và có tín nhiệm được cử ra trông

coi trật tự ở Giáo Phường, gọi là Quản Giáp. Quản giáp phiên âm chệch ra thành

tiếng Kép. Sách Vũ trung tuỳ bút, thiên nhạc biện, gọi Quản Giáp là kép, Đào nương

là Cô đầu . Sách ở Giáo Phường ngày xưa cử đào kép đi hát các đình đàm đều viết

Giáp là Kép. Đào là Cô Đầu.



5. VÌ sao gọi là Đàn Đáy :




Sách Ca trù bị khảo : Khi hát ở cửa đền, người kép lấy lụa đeo đàn vào người để

đứng mà gẩy cho đỡ mỏi nên gọi là đàn Đáy. Tiếng đáy do chữ Đới nghĩa là đeo,

phiên âm chệch ra.

Sách Vũ Trung tuỳ bút : Mỗi khi người Quản Giáp đến Nhạc Đường, lấy cái khăn

nhiễu điều quang vào lưng để đeo đàn đáy đứng gảy, cùng ả đào xướng họa theo

với điệu hát lên xuống mà đàn ứng theo.

Truyện đất Tổ : Đời nhà Lê, Đinh lễ chế ra một cái đàn không có đáy để gẩy theo

điệu hát ả đào,khúc hát cuồn cuộn như nước chảy ra biển không đáy. Sau người ta bỏ

chữ không, chỉ còn chữ đáy nên gọi là đàn đáy.



6. Vì sao người đánh trống gọi là Cầm chầu ?


Sách Ca trù bị khảo : Theo Lê triều hội Điển Khi triều đình đại lễ có đặt một viên Tửu

Lệnh và một viên Cổ lệnh. Viên Tửu Lệnh phải am hiểu lễ nghi, tay cầm gươm để

trông coi nhân viên hành lễ. Viên cổ lệnh phải tinh thông âm nhạc tay cầm dùi trống

để điều khiển nhã nhạc.

Đến khu Chúa Trịnh cầm quyền, trong phủ lục yến ẩm có ban Nữ nhạc giúp vui. Chúa

cử một viên quan tinh thông âm nhạc làm chức Cổ lệnh. Viên cổ lệnh tay cầm dùi

trống đứng ở sân chầu, đánh trống ra hiệu lệnh cho bọn Nữ nhạc múa hát, hay dở

được quyền thưởng phạt. Vì viên Cổ lệnh cầm dùi trống đứng ở sân chầu đánh trống

nên người ta gọi người đánh trống là Cầm chầu hay Đánh Chầu.



7. Vì sao gọi người đi nghe hát là Quan Viên ?



Sách Ca trù bị khảo : Lệ xưa con các quan từ Án sát trở lên, dẫu không đỗ đạt cũng

được triều đình tặng cho Ấm tử. Chức Ấm tử được miễn hết sưu thuế, tạp dịch. Con

các quan Phủ, Huyện gọi là Quan Viên tử, được miễn tạp dịch trong làng. Người ta gọi

người nghe hát là Quan Viên có ý ám chỉ đó là hạng phong lưu công tử.

Lại có thuyết nói Quan Viên là những bậc phong lưu đi du quan thưởng thức. 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét