Thứ Sáu, 31 tháng 12, 2010
《见与不见》-It does't matter if you see me or not
你见,或者不见我,
It does't matter if you see me or not,
我就在那里,
i'm standing right there,
不悲不喜;
with no emotion;
你念,或者不念我,
it doesn't matter if you miss me or not,
情就在那里,
the felling is right there,
不来不去;
and it isn't going anywhere
你爱,或者不爱我,
it doesn't matter if you love me or not,
爱就在那里,
love is right there,
不增不减;
and it is not going to change
你跟,或者不跟我,
it doesn't matter if you are with me or not,
我的手就在你手里,
my hand is in your hand,
不舍不弃;
and i am not going to let go
来我的怀里,
let me embrace you,
或者,
or,
让我住进你的心里
let me live in your heart eternity
默然 相爱,
silence love
寂静 欢喜
calmness joy
《班扎古鲁白玛的沉默》
作者:扎西拉姆·多多
Thứ Bảy, 20 tháng 11, 2010
Chiêm Bao
Đêm qua nằm mộng, đến sáng thức dậy thì vẫn nhớ như in, chuyện cũng chẳng có gì.
Mỗ đi ven bờ sông Hồng, nhưng loáng thoáng sau lưng có bóng thích khách áo đen. Đoạn y định vung gươm ám sát mỗ, bỗng hiện ra một ông cụ vận áo the đỏ, đầu hói tóc hai bên dài, mặt nửa đen nửa trắng hiện ra. ..
Ông cụ tay vuốt râu, tay chắp sau lưng đi lại gần thích khách và nói nhỏ, đại thể là :" Ngươi mà vượt được con sông trước mặt thì ta cho là tài "
Gã thích khách chẳng nói câu gì, đưa mắt liếc ngang rồi từ từ đi về bờ sông. Ông cụ phẩy tay đôi lần, lau sậy đã che khuất gã. Thế là mỗ thoát khỏi họa sát thân./.
Đoạn ông cụ quay lại phía mỗ, đưa cho ba nén vàng rồi bảo đi mà mua đất, mua được cả thần đấy. Vàng chưa trao đến tay thì cụ đã tan vào sương khói, không một chút dấu vết. Mỗ quay lại phía sau thì thấy một gò cát hình con cá ngạc (cá sấu/ cá sú). Nó tự xưng là Hà bá ở sông Hồng (Dù sông Hồng làm gì có cá sấu). Hồi đầu mỗ còn giật mình, sợ nó cạp cho đôi phát thì không còn mạng đâu mà mua nhà mua đất cả. Nó nói lầm rầm mấy câu, mỗ nghe loáng thoáng thì đại ý rằng mình là chủ đất mới, nó ở đây đã lâu, giờ có chủ mới đến nên ra chào. Lộc giời ở đâu mà nhiều thế !
Than vãn một hồi, hóa ra nó nằm yên một chỗ vì mắt bị mờ, nhờ mỗ đến lau hộ. Mình thì bình sinh nhút nhát hiền lành, cũng chẳng dám tin lời nó mà lại gần, thôi thì đứng ở xa lấy chân gẩy gẩy, cát ở mắt nó cũng bay dần . .. Nó lại kể lể về gốc gác. Tổ phụ nó nguyên ở Động Đình Hồ bên tàu, nhưng lưu lạc ra sao mà nó ở đây ngót trăm năm rồi. Giờ có người mới thác, vong ấy hợp với nó nên muốn cậy nhờ để về Động Đình Hồ. Mỗ có hỏi thêm nhưng nó nói lầm rầm không nghe rõ được. . . chỉ thấy cứ quay đầu về hướng bắc, nước mắt nước mũi dàn dụa ra mà khóc. Đoạn gạn hỏi tiếp vong kia là ai thì nó im bặt, lúc bấy giờ chuông đồng hồ kêu, mỗ bật dậy, nửa tỉnh nửa mơ . .. .
Sáng dậy nghe loán thoáng 3 hôm trước có người tự tử phía cầu Long Biên. Thực hư chưa rõ làm sao, viết tạm ra đây phòng sau này quên mất.
Hà Nội, 17/11/2010
Mỗ đi ven bờ sông Hồng, nhưng loáng thoáng sau lưng có bóng thích khách áo đen. Đoạn y định vung gươm ám sát mỗ, bỗng hiện ra một ông cụ vận áo the đỏ, đầu hói tóc hai bên dài, mặt nửa đen nửa trắng hiện ra. ..
Ông cụ tay vuốt râu, tay chắp sau lưng đi lại gần thích khách và nói nhỏ, đại thể là :" Ngươi mà vượt được con sông trước mặt thì ta cho là tài "
Gã thích khách chẳng nói câu gì, đưa mắt liếc ngang rồi từ từ đi về bờ sông. Ông cụ phẩy tay đôi lần, lau sậy đã che khuất gã. Thế là mỗ thoát khỏi họa sát thân./.
Đoạn ông cụ quay lại phía mỗ, đưa cho ba nén vàng rồi bảo đi mà mua đất, mua được cả thần đấy. Vàng chưa trao đến tay thì cụ đã tan vào sương khói, không một chút dấu vết. Mỗ quay lại phía sau thì thấy một gò cát hình con cá ngạc (cá sấu/ cá sú). Nó tự xưng là Hà bá ở sông Hồng (Dù sông Hồng làm gì có cá sấu). Hồi đầu mỗ còn giật mình, sợ nó cạp cho đôi phát thì không còn mạng đâu mà mua nhà mua đất cả. Nó nói lầm rầm mấy câu, mỗ nghe loáng thoáng thì đại ý rằng mình là chủ đất mới, nó ở đây đã lâu, giờ có chủ mới đến nên ra chào. Lộc giời ở đâu mà nhiều thế !
Than vãn một hồi, hóa ra nó nằm yên một chỗ vì mắt bị mờ, nhờ mỗ đến lau hộ. Mình thì bình sinh nhút nhát hiền lành, cũng chẳng dám tin lời nó mà lại gần, thôi thì đứng ở xa lấy chân gẩy gẩy, cát ở mắt nó cũng bay dần . .. Nó lại kể lể về gốc gác. Tổ phụ nó nguyên ở Động Đình Hồ bên tàu, nhưng lưu lạc ra sao mà nó ở đây ngót trăm năm rồi. Giờ có người mới thác, vong ấy hợp với nó nên muốn cậy nhờ để về Động Đình Hồ. Mỗ có hỏi thêm nhưng nó nói lầm rầm không nghe rõ được. . . chỉ thấy cứ quay đầu về hướng bắc, nước mắt nước mũi dàn dụa ra mà khóc. Đoạn gạn hỏi tiếp vong kia là ai thì nó im bặt, lúc bấy giờ chuông đồng hồ kêu, mỗ bật dậy, nửa tỉnh nửa mơ . .. .
Sáng dậy nghe loán thoáng 3 hôm trước có người tự tử phía cầu Long Biên. Thực hư chưa rõ làm sao, viết tạm ra đây phòng sau này quên mất.
Hà Nội, 17/11/2010
Chủ Nhật, 7 tháng 11, 2010
Chủ Nhật, 17 tháng 10, 2010
Nguyệt Thần Hộ Bảo
Nguyệt Thần Hộ Bảo
“Nguyệt thần hộ bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt là thời kỳ trong và sau giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ hầu như ai cũng nghe nói về tác dụng của dị thuật này mặc dù ngay cả tên của nó là gì có khi chẳng ai biết đến.
“Nguyệt thần hộ bảo” tên như ý nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho tàng, bảo khố, được các tu sĩ người Hoa áp dụng cho việc bảo vệ các kho báu của các gia tộc người Hoa định cư tại Việt Nam, vì nhiều lý do phải hồi hương gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn giấu và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay trở lại Việt Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.
“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “người” hộ bảo được gọi là “Nguyệt thần”.
Để tạo ra Nguyệt thần, các tu sĩ người Hoa liền đi khắp nơi trên nước Việt chọn lấy các trinh nữ tuổi khoảng 12, 13 (Được gọi là “Nguyệt thước” - Mầm gạo Nguyệt) để chú thuật nuôi dưỡng cho đến khi “Nguyệt thước” thành thục thì mang tới kho tàng tiến hành hoàn tất pháp thuật.
“Nguyệt thước” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách bừa bãi mà chọn theo Bát tự một cách quy luật. Tương truyền, trong các loại “Nguyệt thước” có hai loại linh nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả cũng mạnh mẽ nhất:
1, Canh Kim Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày Kim, tháng Kim, năm Kim, mệnh Kim ngũ cục. Đặc biệt nếu trên người có khí chất vương giả hoặc khí chất của gia đình võ tướng thì càng thêm hiệu quả.
Canh Kim Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt Thần (hay còn gọi là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có sát tính mạnh nhất, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp công hầu vương giả.
2, Huyền Âm Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày Âm, tháng Âm, năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục. Đặc biệt trên người có khí chất hạo thiên của gia tộc văn quan, hoặc khí chất đoan thục của gia đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu quả.
Huyền Âm Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt Thần (hay còn gọi là Huyền Âm Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về che dấu, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp cổ gia, đại thương phú khả địch quốc.
Sau khi đã “Tuyển thước” thành công, thì chuyển sang “Dưỡng thước”.
Quá trình “Dưỡng thước” là việc các tu sĩ người Hoa dùng dược liệu nuôi dưỡng “Nguyệt thước”, dạy cho các “Nguyệt thước” một loại công pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật” và bắt “Nguyệt thước” phải tu luyện đến đại thành trước năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên cơ thể “Nguyệt thước” các loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.
Những “Nguyệt thước” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên thần hoá âm thuật” trước năm 15 tuổi) sẽ được lựa chọn một lần cuối để chọn ra “Nguyệt thước” có khí chất tốt nhất, đồng thời được đưa đến kho tàng đúng vào năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”
Kho tàng, vốn cũng được các thuật sĩ người Hoa lựa chọn trước tại những nơi có hoàn cảnh phong thuỷ đặc biệt và khó phát hiện.
Tại kho tàng, trước khi bắt đầu nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt thước” (Giai đoạn hiện tại còn có thể gọi là “Nguyệt sát”) được tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời được cho ngậm một miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống của “Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa khắc (Được gọi chung “Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.
Lúc này “Nguyệt sát” sẽ được khống chế không thể di động, và được đặt vào trong trận pháp tương ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau đó thì trận pháp được khởi động bằng tính mạng và máu huyết của các hạ nhận đào động, vận chuyển báu vật mang vào trong động. Đồng thời cũng là một cách giữ bí mật vị trí của bảo tàng mà người Hoa hay dùng.
Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dược, chướng khí (tuỳ bảo tàng và thuật sĩ) cũng sẽ được khởi động (hoặc tự khởi động) vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo tàng (cửa động) được phong kín.
Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia người Hoa trên sau này chỉ việc mang theo bản đồ, Lệnh phù phù hợp với pháp trận của bảo tàng, những kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá giải cơ quan bẫy rập… trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận” mở ra trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng hai, ba ngày - thường gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy bảo vật.
Nhàn đàm: Thực tế, việc lựa chọn “Nguyệt thước” dựa vào Bát tự, việc dùng phong thuỷ lựa chọn nơi chôn bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của “Nguyệt thần hộ bảo” là Bí thuật “dưỡng thước”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”, “Nguyệt thần sát trận” và Bí thuật “Bách nhật lệnh”
Trong các cao nhân ở đây, nếu ai có thông tin về 4 loại bí thuật mấu chốt trên, mong rằng có thể chia sẽ cho mọi người cùng tăng thêm kiến thức.
Kỳ tiếp theo: Chiêu Tài Thánh Nữ
“Nguyệt thần hộ bảo” là một dị thuật rất nổi tiếng ở Việt Nam đặc biệt là thời kỳ trong và sau giải phóng. Có thể nói ở Việt Nam lúc bấy giờ hầu như ai cũng nghe nói về tác dụng của dị thuật này mặc dù ngay cả tên của nó là gì có khi chẳng ai biết đến.
“Nguyệt thần hộ bảo” tên như ý nghĩa là dị thuật dùng để bảo vệ kho tàng, bảo khố, được các tu sĩ người Hoa áp dụng cho việc bảo vệ các kho báu của các gia tộc người Hoa định cư tại Việt Nam, vì nhiều lý do phải hồi hương gấp mà không kịp mang theo gia sản, nên đành chôn giấu và niêm phong kho báu, với mục đích ngày sau con cháu có cơ hội quay trở lại Việt Nam lấy lại gia sản của tổ tiên.
“Nguyệt thần hộ bảo” mục đích là Hộ bảo, và “người” hộ bảo được gọi là “Nguyệt thần”.
Để tạo ra Nguyệt thần, các tu sĩ người Hoa liền đi khắp nơi trên nước Việt chọn lấy các trinh nữ tuổi khoảng 12, 13 (Được gọi là “Nguyệt thước” - Mầm gạo Nguyệt) để chú thuật nuôi dưỡng cho đến khi “Nguyệt thước” thành thục thì mang tới kho tàng tiến hành hoàn tất pháp thuật.
“Nguyệt thước” tất nhiên không phải lựa chọn từ các trinh nữ một cách bừa bãi mà chọn theo Bát tự một cách quy luật. Tương truyền, trong các loại “Nguyệt thước” có hai loại linh nghiệm nhất, đồng thời hiệu quả cũng mạnh mẽ nhất:
1, Canh Kim Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Kim, ngày Kim, tháng Kim, năm Kim, mệnh Kim ngũ cục. Đặc biệt nếu trên người có khí chất vương giả hoặc khí chất của gia đình võ tướng thì càng thêm hiệu quả.
Canh Kim Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Canh Kim Nguyệt Thần (hay còn gọi là Canh Kim Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có sát tính mạnh nhất, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp công hầu vương giả.
2, Huyền Âm Nguyệt Thước: Đây là những trinh nữ sinh vào giờ Âm, ngày Âm, tháng Âm, năm Âm, mệnh Thuỷ lục cục. Đặc biệt trên người có khí chất hạo thiên của gia tộc văn quan, hoặc khí chất đoan thục của gia đình hào môn gia giáo thì càng thêm hiệu quả.
Huyền Âm Nguyệt Thước sau khi thành thục sẽ trở thành Huyền Âm Nguyệt Thần (hay còn gọi là Huyền Âm Sát) là một trong những Nguyệt thần thủ hộ có Âm tính mạnh nhất thiện về che dấu, phù hợp với việc thủ hộ kho tàng của tầng lớp cổ gia, đại thương phú khả địch quốc.
Sau khi đã “Tuyển thước” thành công, thì chuyển sang “Dưỡng thước”.
Quá trình “Dưỡng thước” là việc các tu sĩ người Hoa dùng dược liệu nuôi dưỡng “Nguyệt thước”, dạy cho các “Nguyệt thước” một loại công pháp cơ bản “Nguyên thần hoá âm thuật” và bắt “Nguyệt thước” phải tu luyện đến đại thành trước năm 15 tuổi, đồng thời chú khắc lên cơ thể “Nguyệt thước” các loại phù trận tuỳ theo từng tu sĩ.
Những “Nguyệt thước” thành thục (tức là hoàn thành “Nguyên thần hoá âm thuật” trước năm 15 tuổi) sẽ được lựa chọn một lần cuối để chọn ra “Nguyệt thước” có khí chất tốt nhất, đồng thời được đưa đến kho tàng đúng vào năm 15 tuổi để chuyển thành “Nguyệt thần”
Kho tàng, vốn cũng được các thuật sĩ người Hoa lựa chọn trước tại những nơi có hoàn cảnh phong thuỷ đặc biệt và khó phát hiện.
Tại kho tàng, trước khi bắt đầu nghi thức chuyển hoá. “Nguyệt thước” (Giai đoạn hiện tại còn có thể gọi là “Nguyệt sát”) được tắm rửa sạch sẽ, chay tịnh một thời gian, đồng thời được cho ngậm một miếng sâm (hoặc phù chú) tuỳ môn phái, đảm bảo có thể duy trì sự sống của “Nguyệt sát” 100 ngày, và cũng chỉ duy nhất 100 ngày không hơn nửa khắc (Được gọi chung “Bách nhật lệnh”), và bị hàn kín miệng lại.
Lúc này “Nguyệt sát” sẽ được khống chế không thể di động, và được đặt vào trong trận pháp tương ứng với loại “Nguyệt thần” của bản thân. Sau đó thì trận pháp được khởi động bằng tính mạng và máu huyết của các hạ nhận đào động, vận chuyển báu vật mang vào trong động. Đồng thời cũng là một cách giữ bí mật vị trí của bảo tàng mà người Hoa hay dùng.
Trong bảo tàng lúc này các cơ quan ám khí, hoặc độc dược, chướng khí (tuỳ bảo tàng và thuật sĩ) cũng sẽ được khởi động (hoặc tự khởi động) vào khắc cuối cùng khi mà cửa bảo tàng (cửa động) được phong kín.
Cuối cùng, hậu duệ của các đại gia người Hoa trên sau này chỉ việc mang theo bản đồ, Lệnh phù phù hợp với pháp trận của bảo tàng, những kiến thức gia truyền liên quan đến việc phá giải cơ quan bẫy rập… trong động, đồng thời đợi đến đúng thời điểm “Nguyệt thần sát trận” mở ra trong tháng (Mỗi tháng, trận pháp trong bảo tàng sẽ mở ra khoảng hai, ba ngày - thường gọi là “Nguyệt thần sát trận”) thì tiến vào lấy bảo vật.
Nhàn đàm: Thực tế, việc lựa chọn “Nguyệt thước” dựa vào Bát tự, việc dùng phong thuỷ lựa chọn nơi chôn bảo tàng, và việc thiết kế cơ quan bẫy rập… không khó. Điểm mấu chốt của “Nguyệt thần hộ bảo” là Bí thuật “dưỡng thước”, công pháp “Nguyên thần hoá âm thuật”, “Nguyệt thần sát trận” và Bí thuật “Bách nhật lệnh”
Trong các cao nhân ở đây, nếu ai có thông tin về 4 loại bí thuật mấu chốt trên, mong rằng có thể chia sẽ cho mọi người cùng tăng thêm kiến thức.
Kỳ tiếp theo: Chiêu Tài Thánh Nữ
Thứ Ba, 5 tháng 10, 2010
Sĩ
Thứ Sáu, 3 tháng 9, 2010
Ngoảnh đầu lại, tất cả như gió thoảng mây trôi . . .
Than ôi! Trời vào thu vận ra cảnh cũ, trải bao phen suy thịnh mới có ngày hôm nay; nước Hồng Hà cuồn cuộn chảy về đông, nghĩ đến thuở ta cùng ngươi lớp hai, lớp một. Nhớ ngày nào rong chơi khắp bến, nhớ năm nào rong ruổi khắp phố phường. Nay ta quán xuyến cho ngươi, ngươi khinh khỉnh, bỏ ta mà vội thác!
Người có nhớ khi cha người tạ thế, bóng mẹ người leo lắt giữa đêm khuya? Người có nhớ những ngày tháng ấy, mẹ ngươi khổ sầu không người bầu bạn. Vỗn đã hay sinh tử là thứ quý, nhưng cũng hay số mệnh tại trời. Mẹ người vốn trong tâm có bệnh, lại can qua sóng gió ngàn ngày. Thân cô liễu sao mà gánh nổi, đã sớm đành về với tổ tông.
Còn mình ngươi. Mấy năm nay ta chưa từng tái ngộ, nhưng trông ngóng tin ngươi cũng hàng ngày. Tưởng người yên chí vững lòng đã vào được quân ngũ, thỏa chí nam nhi mà làm mát lòng cha mẹ. Ai ngờ hôm nao gặp lại, người nói với ta tin dữ kinh hồn. Sao có bệnh trong người mà không quan tâm săn sóc sớm, lại dấu diếm bao người, đến giờ phát ra, kêu than chẳng kịp? Dẫu ta chẳng phải phú gia địch quốc, nhưng cố chắt bóp dè xẻn, ta có cơm ăn thì ngươi cũng phải có thuốc uống. Nào ngờ ngươi lại bản tính tự ti, mấy năm trời không thèm đoái hoài bạn cũ ! Ngươi sợ chi? Lo chi? Ngại ngùng chi?
Cha ta và cha ngươi, tuy không quen biết nhau nhưng cũng từng trong quân ngũ. Mỗi người mỗi trận địa nhưng cũng trải bao thống khổ sầu bi. Những đau khổ ấy, há ta lại chẳng biết sao? Khi cha ngươi mất, há ngươi lại chẳng biết sao? Vậy mà giờ trong người phát bạo bệnh, ngươi vẫn giấu ta, nếu không có người khác báo tin, ta cũng một mực không biết đầu đuôi sau trước. Đến lúc mọi người biết để mà chăm bẵm người thì ô hô ai tai, thật đành chẳng kịp. Thôi, ngươi đã quyết chí về với tổ tông, ta cũng biết làm gì ngoài than khóc?
Dưới linh ảnh nức mùi hương khói, sực nhớ tháng ngày hóng gió, ngắm trăng. Không một người khăn trắng áo xô, chạnh nghĩ buổi chia ly ngày trước. Bâng khuâng mất mất còn còn, người ở đâu thì hồn ở đó. Thác một đời người, nhẹ nhõm một kiếp ngươi nhưng lại làm bi lụy bao kẻ khác. Cha mẹ ngươi không còn, nhưng ngươi đi cũng là làm đau cha mẹ. Bạn bè ngươi mất một người bạn tốt, láng giềng ngươi nhớ một kẻ tận tình. Đồng chí ngươi thương một người tận lực, đất nước người nhớ một bóng tận tâm.
Ôi thôi, thiên cơ huyền diệu, thâm sâu chưa rõ, thiêng thì về quê cũ, hưởng chút tình hàng xóm láng giềng, hưởng mùi hương lúa chín, hưởng nhãn lồng quê nội. Đã quyết đi thì nhớ đi cho thẳng, chớ có vấn vương thế tục làm chi, kiếp tái sinh, luân hồi trong mấy chốc, đi đi, đi đi . ..
Nay ta đem tâm này, thắp ba nén nhang, thỉnh ba chén trà, có linh xin hưởng.
_______
Nguyễn Tuấn Tú
Sinh ngày 16 tháng 5 năm Canh Ngọ.
Mất ngày 3 tháng 9 năm Canh Dần, hưởng dương 20 tuổi.
Hỏa táng tại đài hóa thân Hoàn Vũ, tro cốt gửi về quê cũ Mai Động, Hưng Yên.
Người có nhớ khi cha người tạ thế, bóng mẹ người leo lắt giữa đêm khuya? Người có nhớ những ngày tháng ấy, mẹ ngươi khổ sầu không người bầu bạn. Vỗn đã hay sinh tử là thứ quý, nhưng cũng hay số mệnh tại trời. Mẹ người vốn trong tâm có bệnh, lại can qua sóng gió ngàn ngày. Thân cô liễu sao mà gánh nổi, đã sớm đành về với tổ tông.
Còn mình ngươi. Mấy năm nay ta chưa từng tái ngộ, nhưng trông ngóng tin ngươi cũng hàng ngày. Tưởng người yên chí vững lòng đã vào được quân ngũ, thỏa chí nam nhi mà làm mát lòng cha mẹ. Ai ngờ hôm nao gặp lại, người nói với ta tin dữ kinh hồn. Sao có bệnh trong người mà không quan tâm săn sóc sớm, lại dấu diếm bao người, đến giờ phát ra, kêu than chẳng kịp? Dẫu ta chẳng phải phú gia địch quốc, nhưng cố chắt bóp dè xẻn, ta có cơm ăn thì ngươi cũng phải có thuốc uống. Nào ngờ ngươi lại bản tính tự ti, mấy năm trời không thèm đoái hoài bạn cũ ! Ngươi sợ chi? Lo chi? Ngại ngùng chi?
Cha ta và cha ngươi, tuy không quen biết nhau nhưng cũng từng trong quân ngũ. Mỗi người mỗi trận địa nhưng cũng trải bao thống khổ sầu bi. Những đau khổ ấy, há ta lại chẳng biết sao? Khi cha ngươi mất, há ngươi lại chẳng biết sao? Vậy mà giờ trong người phát bạo bệnh, ngươi vẫn giấu ta, nếu không có người khác báo tin, ta cũng một mực không biết đầu đuôi sau trước. Đến lúc mọi người biết để mà chăm bẵm người thì ô hô ai tai, thật đành chẳng kịp. Thôi, ngươi đã quyết chí về với tổ tông, ta cũng biết làm gì ngoài than khóc?
Dưới linh ảnh nức mùi hương khói, sực nhớ tháng ngày hóng gió, ngắm trăng. Không một người khăn trắng áo xô, chạnh nghĩ buổi chia ly ngày trước. Bâng khuâng mất mất còn còn, người ở đâu thì hồn ở đó. Thác một đời người, nhẹ nhõm một kiếp ngươi nhưng lại làm bi lụy bao kẻ khác. Cha mẹ ngươi không còn, nhưng ngươi đi cũng là làm đau cha mẹ. Bạn bè ngươi mất một người bạn tốt, láng giềng ngươi nhớ một kẻ tận tình. Đồng chí ngươi thương một người tận lực, đất nước người nhớ một bóng tận tâm.
Ôi thôi, thiên cơ huyền diệu, thâm sâu chưa rõ, thiêng thì về quê cũ, hưởng chút tình hàng xóm láng giềng, hưởng mùi hương lúa chín, hưởng nhãn lồng quê nội. Đã quyết đi thì nhớ đi cho thẳng, chớ có vấn vương thế tục làm chi, kiếp tái sinh, luân hồi trong mấy chốc, đi đi, đi đi . ..
Nay ta đem tâm này, thắp ba nén nhang, thỉnh ba chén trà, có linh xin hưởng.
_______
Nguyễn Tuấn Tú
Sinh ngày 16 tháng 5 năm Canh Ngọ.
Mất ngày 3 tháng 9 năm Canh Dần, hưởng dương 20 tuổi.
Hỏa táng tại đài hóa thân Hoàn Vũ, tro cốt gửi về quê cũ Mai Động, Hưng Yên.
Thứ Ba, 31 tháng 8, 2010
IBA định đô nhật ký
Ngày nhàn rỗi, tháng thảnh thơi, ta lại ngồi nhâm nhi ly nước cất, nhân thể mà bàn đến chuyện IBA dời đô. Nói chuyện ngày nay thì cũng phải ngẫm lại sử cũ. " Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. " Đinh Bộ Lĩnh chọn Hoa Lư mà lập đế nghiệp, ấy là bởi vì thời thế loạn lạc, đất Hoa Lư dễ thủ mà khó công, tiến hay thoái đều lợi cả trăm đường. Đến Lý Công Uẩn thì đất nước lại thái bình, binh đao loạn lạc không còn, chiến sự cũng không liên miên nữa, vậy nên bỏ Hoa Lư mà đến Đại La, ấy là bỏ thế thủ mà tiến đến thế công vậy.
Nhưng ngẫm lại với IBA, chúng ta nào có phải dời đô, bởi lẽ chúng ta đã làm gì có đô để mà dời ?! Xưa, Lưu Bị là dòng dõi tông thất nhà Hán, danh chính ngôn thuận nhưng chinh chiến cả đời người vẫn không có chỗ nương thân. Sau trận Xích Bích bèn mượn lấy Kinh Châu để mà khởi nghiệp, dần tiến vào Tây Xuyên, giành Hán Trung mà thành đại sự. Nay IBA ta buổi đầu bỡ ngỡ, cũng nhờ có Detech hào hoa mà anh em được chốn dung thân bấy lâu. Nhưng hãy ngẫm mà xem, Detech tuy tốt nhưng IBA đâu có tung hoành ngang dọc được? Ngẫm từ cái tên mà ra, đó là mảnh đất dành cho dân công nghệ, phi dân công nghệ ở đó, không thể nào tiến triển lên được. Vậy nên, IBA phải lập đô mới, có an cư thì mới lạc nghiệp !
Xét chuyện lâu dài, Detech tuy gần các công ty lớn nhưng thật ra lại là chốn hoang vu. Cơ sở hạ tầng tuy có tốt nhưng dẫu sao cũng kinh qua ngàn ngày, rệu rã phải đến bảy, tám phần. Các chốn ăn uống, vui chơi xung quanh thì hầu như không có, há chẳng phải là kìm kẹp, gò bó chúng ta đó ru? Mạng wifi Detech có xịn mấy, nhưng lại phải gánh cả hai ngàn người, chẳng phải là quá tải đó ru? Không cần nói đâu xa, ngay bãi để xe cũng chật hẹp muôn phần. Bảo vệ của trường thì rất tốt, không bàn thêm nữa, nhưng bảo vệ của tòa nhà thì sao? Hàng ngày muốn đến trường dùi mài kinh sử, riêng việc cất xe, tìm chỗ cũng đã tổn hao vài phần công lực. Lại thêm những ngày mưa bão, xung quanh ngập lụt, các công trường ngổn ngang xây dựng, bùn, nước lênh láng, nào có phải tiện lợi chi? Những điều đó cũng chỉ là thứ bề ngoài, phù phiếm không đáng bàn, anh em có thể bỏ qua, cố gắng mà học. Nhưng nghĩ đến chuyện cuối ngày, muốn cùng nhau ngồi lại mà dốc bầu tâm sự sẻ chia, mà đàn ca nhảy múa, mà hội hè, mà đình đám thì cũng chẳng kiếm đâu ra chỗ. Xét cho cùng, Detech vốn rất hợp cho anh em Kỹ sư, nhưng còn dân Kinh tế, e rằng chưa phải nơi để tính chuyện lâu dài.
Trai khôn thì dựng vợ, gái lớn phải gả chồng. Con cái lớn rồi, cũng phải làm cái đơn lên xã để mà xin đất khoán, ấy là cái lẽ thường ở đời, cha mẹ nào chả muốn thế. Ừ thì thực chất là chuyện tách sổ hộ khẩu cho mỗi đứa mỗi nơi, nhưng chung quy, vẫn là anh em một nhà cả. Thôi thì nương nhờ anh cả đã lâu, nay người em non nớt cũng đã dần cứng cáp, gửi lại anh cơ nghiệp tổ tông, mong anh duy trì, gây dựng mà phát dương quang đại FPT phái. Chốn đó, thực là tốt cho anh cả lắm lắm. Phận là em, sinh sau đẻ muộn, lại được nhờ có người anh tương trợ nên mới được như ngày nay. Nhưng chiếu theo mệnh trời, thuận theo lòng dân, cũng như khi xưa Mẹ Âu Cơ xuống biển, Cha Long Quân lên non vậy. Thôi đành tạm biệt Detech, chúng ta bèn tìm nơi để tính chuyện lâu dài. Không mong là hùng cứ một phương, nhưng cũng phấn đấu là tạo được cơ đồ. Dù nhỏ dù to, dù bơi ra biển lớn, công danh vang dội hay chỉ quanh quẩn nước Nam, cũng ngày đêm không quên ơn Detech, trông về mà bái vọng.
Lập đô là chuyện đại sự, nếu không qua trăm lần hội đàm, kiến nghị thì bề trên đâu có quyết định đưa ra. Trông khắp các chốn gần xa, duy chỉ có Việt - Úc là hơn cả. Giảng đường thì bàn ghế hàng ba, mọi bề đều bảng trắng. Sóng wifi thì mỗi phòng một mạng, không thể nào dùng hết đường truyền. Nhà vệ sinh lại đạt cấp 3 sao, vào lâu quá, ngủ quên đừng có trách. Cuối hành lang có sảnh nhỏ sảnh to, vui ca nhảy múa, ăn chơi đều dễ cả. Trước, ta tạm trú nơi đây. Sau có xây mới xung quanh, giảng đường lớn, hội trường to lại thêm phần hứng khởi.
Huống chi đất Mỹ Đình, đương thời có Trung tâm Hội nghị Quốc Gia, tuy không phải là trung tâm thành phố nhưng lại là cửa ngõ Thủ đô. Dân cư tuy tấp nập nhưng đường xá lại thông thoáng, bằng phẳng. Phía trước tuy đường có lớn nhưng lại cách vài hàng cây cối, kênh mương thì rộng rãi không sợ ngập úng. Quán xá thì nhiều vô kể, không sợ độc quyền. Lại có sân bãi rộng lớn, tha hồ thể thao thể dục. Không những bụng dạ ta no nê, tài chính ta ổn thỏa mà thân thể ta còn tráng kiện. Bên hữu là trường Việt Úc, nào thiếu các em cấp ba vui tươi nhí nhảnh, tinh thần lại chẳng cao sao? Bên tả lại có trường cấp 1, cấp 2 hàng ngày vang tiếng trống trường, chẳng phải là rất háo hức sao? Phía sau lại thêm Bắc Hà, còn lo thiếu người giao lưu kết bạn sao? Nay mai thôi sẽ có thêm các em lên tầng 3 học Cao đẳng, chẳng phải vui lại càng vui, không đáng để mở tiệc ăn mừng sao? Xem khắp chốn đất sốt giá chia lô, đây thực là nơi hội tụ quan yếu của Mỹ Đình. Xa thì có thể vươn lên Hòa Lạc, gần thì có thể hướng về Detech. Đúng là nơi thượng địa muôn đời, nếu đến muộn một ngày thì hối tiếc cả một năm, đến muộn một năm thì thực là uổng phí quãng đời sinh viên vậy. Suy đi tính lại, học phí đó, công lao đó, địa điểm đó chẳng phải chu toàn hay sao?
Giờ thì thiên ý đã định, vạn sự đã thông. Còn chờ gì nữa mà không mừng đô mới. Cuối tuần sau ngày tốt tháng lành, mời chư vị bằng hữu đại giá quang lâm. Lẩu vài chục nồi tuy nghi ngút khói, nhưng e rằng chẳng đủ cho anh em. Nay lập lời hẹn này, đúng giờ Tân Dậu (17h30) ngày Quý Hợi, tháng Ất Dậu (10/9) mong các huynh đệ y hẹn. Bia vài két, rượu vài chén, cùng chung vui đô mới IBA !
Nhưng ngẫm lại với IBA, chúng ta nào có phải dời đô, bởi lẽ chúng ta đã làm gì có đô để mà dời ?! Xưa, Lưu Bị là dòng dõi tông thất nhà Hán, danh chính ngôn thuận nhưng chinh chiến cả đời người vẫn không có chỗ nương thân. Sau trận Xích Bích bèn mượn lấy Kinh Châu để mà khởi nghiệp, dần tiến vào Tây Xuyên, giành Hán Trung mà thành đại sự. Nay IBA ta buổi đầu bỡ ngỡ, cũng nhờ có Detech hào hoa mà anh em được chốn dung thân bấy lâu. Nhưng hãy ngẫm mà xem, Detech tuy tốt nhưng IBA đâu có tung hoành ngang dọc được? Ngẫm từ cái tên mà ra, đó là mảnh đất dành cho dân công nghệ, phi dân công nghệ ở đó, không thể nào tiến triển lên được. Vậy nên, IBA phải lập đô mới, có an cư thì mới lạc nghiệp !
Xét chuyện lâu dài, Detech tuy gần các công ty lớn nhưng thật ra lại là chốn hoang vu. Cơ sở hạ tầng tuy có tốt nhưng dẫu sao cũng kinh qua ngàn ngày, rệu rã phải đến bảy, tám phần. Các chốn ăn uống, vui chơi xung quanh thì hầu như không có, há chẳng phải là kìm kẹp, gò bó chúng ta đó ru? Mạng wifi Detech có xịn mấy, nhưng lại phải gánh cả hai ngàn người, chẳng phải là quá tải đó ru? Không cần nói đâu xa, ngay bãi để xe cũng chật hẹp muôn phần. Bảo vệ của trường thì rất tốt, không bàn thêm nữa, nhưng bảo vệ của tòa nhà thì sao? Hàng ngày muốn đến trường dùi mài kinh sử, riêng việc cất xe, tìm chỗ cũng đã tổn hao vài phần công lực. Lại thêm những ngày mưa bão, xung quanh ngập lụt, các công trường ngổn ngang xây dựng, bùn, nước lênh láng, nào có phải tiện lợi chi? Những điều đó cũng chỉ là thứ bề ngoài, phù phiếm không đáng bàn, anh em có thể bỏ qua, cố gắng mà học. Nhưng nghĩ đến chuyện cuối ngày, muốn cùng nhau ngồi lại mà dốc bầu tâm sự sẻ chia, mà đàn ca nhảy múa, mà hội hè, mà đình đám thì cũng chẳng kiếm đâu ra chỗ. Xét cho cùng, Detech vốn rất hợp cho anh em Kỹ sư, nhưng còn dân Kinh tế, e rằng chưa phải nơi để tính chuyện lâu dài.
Trai khôn thì dựng vợ, gái lớn phải gả chồng. Con cái lớn rồi, cũng phải làm cái đơn lên xã để mà xin đất khoán, ấy là cái lẽ thường ở đời, cha mẹ nào chả muốn thế. Ừ thì thực chất là chuyện tách sổ hộ khẩu cho mỗi đứa mỗi nơi, nhưng chung quy, vẫn là anh em một nhà cả. Thôi thì nương nhờ anh cả đã lâu, nay người em non nớt cũng đã dần cứng cáp, gửi lại anh cơ nghiệp tổ tông, mong anh duy trì, gây dựng mà phát dương quang đại FPT phái. Chốn đó, thực là tốt cho anh cả lắm lắm. Phận là em, sinh sau đẻ muộn, lại được nhờ có người anh tương trợ nên mới được như ngày nay. Nhưng chiếu theo mệnh trời, thuận theo lòng dân, cũng như khi xưa Mẹ Âu Cơ xuống biển, Cha Long Quân lên non vậy. Thôi đành tạm biệt Detech, chúng ta bèn tìm nơi để tính chuyện lâu dài. Không mong là hùng cứ một phương, nhưng cũng phấn đấu là tạo được cơ đồ. Dù nhỏ dù to, dù bơi ra biển lớn, công danh vang dội hay chỉ quanh quẩn nước Nam, cũng ngày đêm không quên ơn Detech, trông về mà bái vọng.
Lập đô là chuyện đại sự, nếu không qua trăm lần hội đàm, kiến nghị thì bề trên đâu có quyết định đưa ra. Trông khắp các chốn gần xa, duy chỉ có Việt - Úc là hơn cả. Giảng đường thì bàn ghế hàng ba, mọi bề đều bảng trắng. Sóng wifi thì mỗi phòng một mạng, không thể nào dùng hết đường truyền. Nhà vệ sinh lại đạt cấp 3 sao, vào lâu quá, ngủ quên đừng có trách. Cuối hành lang có sảnh nhỏ sảnh to, vui ca nhảy múa, ăn chơi đều dễ cả. Trước, ta tạm trú nơi đây. Sau có xây mới xung quanh, giảng đường lớn, hội trường to lại thêm phần hứng khởi.
Huống chi đất Mỹ Đình, đương thời có Trung tâm Hội nghị Quốc Gia, tuy không phải là trung tâm thành phố nhưng lại là cửa ngõ Thủ đô. Dân cư tuy tấp nập nhưng đường xá lại thông thoáng, bằng phẳng. Phía trước tuy đường có lớn nhưng lại cách vài hàng cây cối, kênh mương thì rộng rãi không sợ ngập úng. Quán xá thì nhiều vô kể, không sợ độc quyền. Lại có sân bãi rộng lớn, tha hồ thể thao thể dục. Không những bụng dạ ta no nê, tài chính ta ổn thỏa mà thân thể ta còn tráng kiện. Bên hữu là trường Việt Úc, nào thiếu các em cấp ba vui tươi nhí nhảnh, tinh thần lại chẳng cao sao? Bên tả lại có trường cấp 1, cấp 2 hàng ngày vang tiếng trống trường, chẳng phải là rất háo hức sao? Phía sau lại thêm Bắc Hà, còn lo thiếu người giao lưu kết bạn sao? Nay mai thôi sẽ có thêm các em lên tầng 3 học Cao đẳng, chẳng phải vui lại càng vui, không đáng để mở tiệc ăn mừng sao? Xem khắp chốn đất sốt giá chia lô, đây thực là nơi hội tụ quan yếu của Mỹ Đình. Xa thì có thể vươn lên Hòa Lạc, gần thì có thể hướng về Detech. Đúng là nơi thượng địa muôn đời, nếu đến muộn một ngày thì hối tiếc cả một năm, đến muộn một năm thì thực là uổng phí quãng đời sinh viên vậy. Suy đi tính lại, học phí đó, công lao đó, địa điểm đó chẳng phải chu toàn hay sao?
Giờ thì thiên ý đã định, vạn sự đã thông. Còn chờ gì nữa mà không mừng đô mới. Cuối tuần sau ngày tốt tháng lành, mời chư vị bằng hữu đại giá quang lâm. Lẩu vài chục nồi tuy nghi ngút khói, nhưng e rằng chẳng đủ cho anh em. Nay lập lời hẹn này, đúng giờ Tân Dậu (17h30) ngày Quý Hợi, tháng Ất Dậu (10/9) mong các huynh đệ y hẹn. Bia vài két, rượu vài chén, cùng chung vui đô mới IBA !
Thứ Sáu, 27 tháng 8, 2010
Lách cách, lách cách . . . . Nộm ơ !
Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ mang máng những câu văn quen thuộc mà hồi mới vào cấp 2, chúng tôi được học một cách rất máy móc . . . " Màn đêm dần tràn về trong khu tập thể cũ, tiếng những thùng nước va vào nhau loảng xoảng của đám người lao động về khuya. Tiếng kéo của những người bán nộm bò khô vang lên lách cách . . ."
Thật tình thì tôi không thể nhớ rõ được bởi cái lẽ mà tôi đã nêu ở trên ấy, lũ chúng tôi được học rất máy móc. Chúng tôi không hiểu tại sao những người dân lao động lại phải xách nước muộn như thế, lại càng không hiểu tại sao giữa đêm rồi mà vẫn còn có người bán nộm dạo. Nhưng có lẽ cái ấn tượng nhất trong đầu bọn trẻ chúng tôi là tiếng kêu lách cách của kéo. Phải vậy chăng mà bây giờ, hễ nói đến nộm, người ta thường quán tưởng ngay đến những âm thanh vui tai ấy: lách cách, lách cách.
Nếu đúng ra mà nói, thì nộm có nhiều, rất nhiều loại. Nào là nộm su hào, nộm miến hải sản, nộm rau muống, nộm gà hoa chuối, nộm xoài .v.v.. Ngồi mà cắt nghĩa chữ "Nộm" ra thì cũng khó. Trong chữ Nôm thì chữ Nộm ở dưới là chữ "Niệm" (lấy khẩu âm) và ở trên là bộ Thảo (cỏ) chắc là các cụ cũng có ý rằng là nộm loại gì thì loại, nhưng bắt buộc phải có rau! Ờ thì cũng đúng quá rồi, nộm mà không có rau, đố bố con thằng nào bán được hàng! Ấy vậy ngoài rau ra, còn điểm gì chung giữa các loại nộm nữa nhỉ? Chắc cũng chỉ có thêm hai điểm chung nữa. Một cách người ta chia nguyên liệu thành các sợi, to nhỏ tùy loại. Nộm đu đủ thì sợi nhỏ, nộm su hào thì sợi to hơn chút để khỏi bị nát. Nộm gà xé phay hay nộm hải sản lại làm kiểu khác. Thứ đến là cách trộn, bóp với các loại gia vị và rau thơm để tăng thêm mùi vậy.
Nhưng các bạn ạ, không phải là định kiến của bản thân hay là thói quen của riêng mình mà tôi chỉ quan tâm tới Nộm bò khô là hơn cả. Trước hết, đó là bởi vì tiếng kéo. Ai đó trong các bạn, nếu đã từng xa Hà Nội một lần rồi bỗng trong đêm khuya thanh vắng mà nghe được tiếng lách ca lách cách, cái âm thanh như gợi nhớ, như mời mọc, như nhắc nhở chúng ta nhớ ngay đến Nộm bò khô. Thêm vào đó, Nộm vốn là một món "ăn chơi" tức là ăn để mà chơi thôi. Vậy nên Nộm bò khô chẳng phải là thích hợp hơn các thứ nộm khác sao? Nói đến đây chắc hẳn sẽ có nhiều tín đồ của các món Nộm hoa chuối, Nộm gà xé .v.v.. sẽ không đồng tình. Nhất là các bạn đã từng ăn và yêu mến món "Nộm gà Phố Cổ" ở đầu phố Lãn Ông. Cá nhân tôi cũng là người hay ăn ở đó, thực lòng mà nói họ làm ngon lắm, có cho nhiều hành tây mà cũng không hắc mấy đâu. Nhưng thú thực là tôi không ưa gì cái cách gọi "Phố Cổ"! Dường như nó là sự lạm dụng, cũng có thể là sự bất lực và bế tắc trong việc xây dựng hình tượng, nói trắng ra là ăn cắp thương hiệu vậy. Người ta thường nói đến "Trà Chanh Đào Duy Từ", chứ ít ai nói "Trà Chanh Phố Cổ" ngoài mấy kẻ muốn lập lờ đánh lận con đen. Sao lại mở hàng quán ở tận Cầu Giấy hay Kim Liên rồi gắn mác "Phố Cổ" vào! Toàn cầu hóa ư? Chuỗi cửa hàng ư? Thương hiệu ư? Hay như cái giếng làng, kẻ sang thì rửa mặt, kẻ hèn thì rửa chân ... Thôi chuyện này xin để khi khác lại mua vui sau vậy, lại nói về Nộm đã.
Trong các món mà tôi có diễm phúc được thưởng thức, tôi luôn cố tìm trong chúng một cái gì đó gốc rễ, một cái gì đó để tôi bớt hoài nghi về món ăn ấy. Thế nhưng tìm hoài, tìm mãi, cũng chả bao giờ tìm được cái gì cả. Vậy là tôi quyết chọn cho mình những món mà tôi coi là "chính đạo". Tỉ dụ như đã ăn Phở là phải Phở bò, ăn bún riêu thì đừng cho đậu rán, ăn bún đậu thì cấm có dưa chuột .v.v.. Và ăn nộm thì nên ăn Nộm bò khô.
Ơ thế tại sao Nộm lại phải ăn với bò khô mà không phải là ruốc lợn, ruốc tôm hay cá chỉ vàng? Bạn nào hay bôn ba hành tẩu giang hồ chắc cũng nhớ câu này :"Đạo trời là lấy chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, lấy cái nhiều bù vào cái ít" Ừ thì cứ cái gì nó bổ khuyết cho nhau được thì là hợp với nhau ấy mà, cũng như con trai với con gái ấy mà, âm dương nó phải cân bằng thì mới nên xuân được. Đại khái là ăn cùng với nhau, hợp vị nhau thì người ta sẽ làm thôi, có gì đâu. Nhưng hợp vị hay không chỉ là chuyện nhỏ. Nếu như nói đu đủ, su hào hơi nhạt, bóp thêm gia vị (nước mắm, xì dầu, dấm .v..) thì sẽ vừa đậm, vậy là hợp khẩu vị rồi còn gì, sao phải thêm thịt bò khô làm gì? Thích ăn cay thì cắt thêm quả ớt xanh vào, có phải là nhanh không, thích dai dai thì cho tí lòng lợn vào, có phải là dai hết biết không? Vậy đấy, mọi thứ không chỉ dừng lại ở chuyện cái này và cái kia ăn cùng thì hợp nhau. Mấu chốt là khi ăn cùng với nhau, chúng tôn nhau lên một cách tuyệt diệu mà hết sức bình dị. Nếu bạn đã từng đặt câu hỏi tại sao lại ăn quẩy cùng với Phở thì chắc đây cũng là một phần trong câu trả lời của bạn rồi đó.
Vị cay của ớt, vị bùi của lạc, vị giòn thanh mát của đu đủ xanh, giòn tan của lá lách, cảm giác sần sật khi đôi hàm răng bạn đay nghiến miếng gân bò. Tất cả cùng hòa quyện lại trên một con thuyền, chúng trộn lẫn vào nhau, bao bọc lẫn nhau. Rồi thêm sự dẫn dắt của vị rau kinh giới, con thuyền vị giác đó lao đao trên dòng sông của nước mắm, dấm và xì dầu. Khi đã bôn ba đủ rồi, chúng ẩn chứa trong mình một thứ sức mạnh có thể quật ngã mọi cảm giác của bạn một cách dễ dàng nhất. Rộp roạp, từng cọng đu đủ bị bạn nhào trộn trong vòm miệng. Rồi lạc, bùi quá. Rồi lại thịt bò, lá lách, cay quá, ngậy quá. Rồi lại kinh giới, thơm quá, rồi lại nước nộm, đậm đà quá. Đôi tay lại nhanh nhanh trộn đều đĩa nộm, lại tạo ra từng đợt phong ba bão táp lên những đu đủ, thịt bò, lá lách, lạc và kinh giới kia. Bạn thật là dã man!
Giờ lại bàn cụ thể hơn một chút, chỉ một chút thôi. Tại sao ở nhà thì hay làm Nộm su hào mà ở quán thì hay làm Nộm đu đủ nhỉ? Thực ra thì nguyên nhân có rất nhiều, cá nhân tôi chỉ võ đoán ra vài điều sau. Thứ nhất, đu đủ bây giờ không dễ mua như trước, thôi thì các bà, các mẹ lấy su hào để thay thế, điểm xuyết thêm chút cà rốt thì cũng nào khác gì đâu. Thứ hai, tại sao ngoài quán không bán nộm su hào? Phần là vì từ trước đến giờ, nộm đu đủ đã thành mặt hàng truyền thống rồi, chả tội gì phải thay thế cả, có chăng thì bán thêm su hào mà thôi! Ấy vậy mà họ vẫn không bán thêm su hào! Như chúng ta đều biết, su hào bình thường nếu nhìn kỹ sẽ thấy có những sơ màu trắng, khi ăn sẽ thấy khô ráp. Thêm nữa là su hào vốn có một chút mùi hơi hắc, nên sẽ phải bóp, trộn thật kỹ. Vả lại nếu bóp trộn quá lâu, su hào sẽ thường bị nát, rất khó để được lâu. Thôi thì các bác nhà ta cứ theo đường lối cũ, chả tốn công hơn mà lại vẫn đảm bảo ISO vậy.
Thịt bò thì không phải là bò sợi hay bò viên mà là bò miếng. Miếng thịt để to bản nhưng được thái dày vừa phải. Sau khi tẩm ướp chán chê với muối, đường, sả, gừng, tỏi, dầu hào, ớt bột hoặc ớt tươi, để qua một đêm. Sau khi vớt ra và để ráo mới cho vào nướng trong lò hoặc rán, tùy từng nơi. Lá lách thì cũng gần như vậy. Nước trộn thì cũng chỉ có dấm, nước mắm, xì dầu, mì chính, đường, ớt mà thôi. Còn tỷ lệ thì mỗi nơi mỗi khác, tôi cũng mới chỉ dò ra được đôi chỗ, xin giữ làm của riêng kẻo lại bị kiện bản quyền.
Hồi còn bé, gần nhà tôi có 1 bà bán nộm, mọi thứ bà làm từ đầu đến đuôi, làm ngon lắm, mà bán có 1.500đ một đĩa (1997). Có những hôm tôi rủ bạn đi học, trên đường đi tôi ăn 1 đĩa, đến nhà bạn rồi, đi về phía trường lại ăn thêm đĩa nữa. Học xong ra cổng lại ăn thêm đĩa nữa. Về đến nhà rồi, ngồi xem hoạt hình Thủy thủ mặt trăng xong cũng lại ra ăn đĩa nữa. Sao tôi giàu thế !
Lớn lên rồi, tôi được mở mang tầm mắt hơn. Tôi biết đến những nộm Bờ Hồ, nộm Mã Mây (Hàng nộm ở Bờ Hồ và Mã Mây vốn là đồng tộc, đều thuộc dòng nộm Ông Tàu Đen - Long Vi Ổn mà ra cả. Hiện nay hàng Nộm Long Vi Ổn ở Bờ Hồ đã chuyển về Đường Thành, tranh chấp nhau đến mệt, chỉ khổ thực khách!) Các quán mới mở mà có danh tiếng, chắc chỉ có Nộm Hàm Long hay chợ Hôm mà thôi. Phải nói một điều chân thật là Nộm Hàm Long không ki bo và tằng tiện đến mức cho ít nước trộn như ở Bờ Hồ và cũng không đắt đỏ như ở Mã Mây. Dù cho danh tiếng mấy đời các ông ba tàu gây dựng thế nào đi nữa, em cũng xin chào các ông, tại các ông độc quyền quá thôi ạ , hi hi.
http://www.facebook.com/notes/tu-ha/lach-cach-lach-cach-nom-o-/463487920465
Thật tình thì tôi không thể nhớ rõ được bởi cái lẽ mà tôi đã nêu ở trên ấy, lũ chúng tôi được học rất máy móc. Chúng tôi không hiểu tại sao những người dân lao động lại phải xách nước muộn như thế, lại càng không hiểu tại sao giữa đêm rồi mà vẫn còn có người bán nộm dạo. Nhưng có lẽ cái ấn tượng nhất trong đầu bọn trẻ chúng tôi là tiếng kêu lách cách của kéo. Phải vậy chăng mà bây giờ, hễ nói đến nộm, người ta thường quán tưởng ngay đến những âm thanh vui tai ấy: lách cách, lách cách.
Nếu đúng ra mà nói, thì nộm có nhiều, rất nhiều loại. Nào là nộm su hào, nộm miến hải sản, nộm rau muống, nộm gà hoa chuối, nộm xoài .v.v.. Ngồi mà cắt nghĩa chữ "Nộm" ra thì cũng khó. Trong chữ Nôm thì chữ Nộm ở dưới là chữ "Niệm" (lấy khẩu âm) và ở trên là bộ Thảo (cỏ) chắc là các cụ cũng có ý rằng là nộm loại gì thì loại, nhưng bắt buộc phải có rau! Ờ thì cũng đúng quá rồi, nộm mà không có rau, đố bố con thằng nào bán được hàng! Ấy vậy ngoài rau ra, còn điểm gì chung giữa các loại nộm nữa nhỉ? Chắc cũng chỉ có thêm hai điểm chung nữa. Một cách người ta chia nguyên liệu thành các sợi, to nhỏ tùy loại. Nộm đu đủ thì sợi nhỏ, nộm su hào thì sợi to hơn chút để khỏi bị nát. Nộm gà xé phay hay nộm hải sản lại làm kiểu khác. Thứ đến là cách trộn, bóp với các loại gia vị và rau thơm để tăng thêm mùi vậy.
Nhưng các bạn ạ, không phải là định kiến của bản thân hay là thói quen của riêng mình mà tôi chỉ quan tâm tới Nộm bò khô là hơn cả. Trước hết, đó là bởi vì tiếng kéo. Ai đó trong các bạn, nếu đã từng xa Hà Nội một lần rồi bỗng trong đêm khuya thanh vắng mà nghe được tiếng lách ca lách cách, cái âm thanh như gợi nhớ, như mời mọc, như nhắc nhở chúng ta nhớ ngay đến Nộm bò khô. Thêm vào đó, Nộm vốn là một món "ăn chơi" tức là ăn để mà chơi thôi. Vậy nên Nộm bò khô chẳng phải là thích hợp hơn các thứ nộm khác sao? Nói đến đây chắc hẳn sẽ có nhiều tín đồ của các món Nộm hoa chuối, Nộm gà xé .v.v.. sẽ không đồng tình. Nhất là các bạn đã từng ăn và yêu mến món "Nộm gà Phố Cổ" ở đầu phố Lãn Ông. Cá nhân tôi cũng là người hay ăn ở đó, thực lòng mà nói họ làm ngon lắm, có cho nhiều hành tây mà cũng không hắc mấy đâu. Nhưng thú thực là tôi không ưa gì cái cách gọi "Phố Cổ"! Dường như nó là sự lạm dụng, cũng có thể là sự bất lực và bế tắc trong việc xây dựng hình tượng, nói trắng ra là ăn cắp thương hiệu vậy. Người ta thường nói đến "Trà Chanh Đào Duy Từ", chứ ít ai nói "Trà Chanh Phố Cổ" ngoài mấy kẻ muốn lập lờ đánh lận con đen. Sao lại mở hàng quán ở tận Cầu Giấy hay Kim Liên rồi gắn mác "Phố Cổ" vào! Toàn cầu hóa ư? Chuỗi cửa hàng ư? Thương hiệu ư? Hay như cái giếng làng, kẻ sang thì rửa mặt, kẻ hèn thì rửa chân ... Thôi chuyện này xin để khi khác lại mua vui sau vậy, lại nói về Nộm đã.
Trong các món mà tôi có diễm phúc được thưởng thức, tôi luôn cố tìm trong chúng một cái gì đó gốc rễ, một cái gì đó để tôi bớt hoài nghi về món ăn ấy. Thế nhưng tìm hoài, tìm mãi, cũng chả bao giờ tìm được cái gì cả. Vậy là tôi quyết chọn cho mình những món mà tôi coi là "chính đạo". Tỉ dụ như đã ăn Phở là phải Phở bò, ăn bún riêu thì đừng cho đậu rán, ăn bún đậu thì cấm có dưa chuột .v.v.. Và ăn nộm thì nên ăn Nộm bò khô.
Ơ thế tại sao Nộm lại phải ăn với bò khô mà không phải là ruốc lợn, ruốc tôm hay cá chỉ vàng? Bạn nào hay bôn ba hành tẩu giang hồ chắc cũng nhớ câu này :"Đạo trời là lấy chỗ thừa bù vào chỗ thiếu, lấy cái nhiều bù vào cái ít" Ừ thì cứ cái gì nó bổ khuyết cho nhau được thì là hợp với nhau ấy mà, cũng như con trai với con gái ấy mà, âm dương nó phải cân bằng thì mới nên xuân được. Đại khái là ăn cùng với nhau, hợp vị nhau thì người ta sẽ làm thôi, có gì đâu. Nhưng hợp vị hay không chỉ là chuyện nhỏ. Nếu như nói đu đủ, su hào hơi nhạt, bóp thêm gia vị (nước mắm, xì dầu, dấm .v..) thì sẽ vừa đậm, vậy là hợp khẩu vị rồi còn gì, sao phải thêm thịt bò khô làm gì? Thích ăn cay thì cắt thêm quả ớt xanh vào, có phải là nhanh không, thích dai dai thì cho tí lòng lợn vào, có phải là dai hết biết không? Vậy đấy, mọi thứ không chỉ dừng lại ở chuyện cái này và cái kia ăn cùng thì hợp nhau. Mấu chốt là khi ăn cùng với nhau, chúng tôn nhau lên một cách tuyệt diệu mà hết sức bình dị. Nếu bạn đã từng đặt câu hỏi tại sao lại ăn quẩy cùng với Phở thì chắc đây cũng là một phần trong câu trả lời của bạn rồi đó.
Vị cay của ớt, vị bùi của lạc, vị giòn thanh mát của đu đủ xanh, giòn tan của lá lách, cảm giác sần sật khi đôi hàm răng bạn đay nghiến miếng gân bò. Tất cả cùng hòa quyện lại trên một con thuyền, chúng trộn lẫn vào nhau, bao bọc lẫn nhau. Rồi thêm sự dẫn dắt của vị rau kinh giới, con thuyền vị giác đó lao đao trên dòng sông của nước mắm, dấm và xì dầu. Khi đã bôn ba đủ rồi, chúng ẩn chứa trong mình một thứ sức mạnh có thể quật ngã mọi cảm giác của bạn một cách dễ dàng nhất. Rộp roạp, từng cọng đu đủ bị bạn nhào trộn trong vòm miệng. Rồi lạc, bùi quá. Rồi lại thịt bò, lá lách, cay quá, ngậy quá. Rồi lại kinh giới, thơm quá, rồi lại nước nộm, đậm đà quá. Đôi tay lại nhanh nhanh trộn đều đĩa nộm, lại tạo ra từng đợt phong ba bão táp lên những đu đủ, thịt bò, lá lách, lạc và kinh giới kia. Bạn thật là dã man!
Giờ lại bàn cụ thể hơn một chút, chỉ một chút thôi. Tại sao ở nhà thì hay làm Nộm su hào mà ở quán thì hay làm Nộm đu đủ nhỉ? Thực ra thì nguyên nhân có rất nhiều, cá nhân tôi chỉ võ đoán ra vài điều sau. Thứ nhất, đu đủ bây giờ không dễ mua như trước, thôi thì các bà, các mẹ lấy su hào để thay thế, điểm xuyết thêm chút cà rốt thì cũng nào khác gì đâu. Thứ hai, tại sao ngoài quán không bán nộm su hào? Phần là vì từ trước đến giờ, nộm đu đủ đã thành mặt hàng truyền thống rồi, chả tội gì phải thay thế cả, có chăng thì bán thêm su hào mà thôi! Ấy vậy mà họ vẫn không bán thêm su hào! Như chúng ta đều biết, su hào bình thường nếu nhìn kỹ sẽ thấy có những sơ màu trắng, khi ăn sẽ thấy khô ráp. Thêm nữa là su hào vốn có một chút mùi hơi hắc, nên sẽ phải bóp, trộn thật kỹ. Vả lại nếu bóp trộn quá lâu, su hào sẽ thường bị nát, rất khó để được lâu. Thôi thì các bác nhà ta cứ theo đường lối cũ, chả tốn công hơn mà lại vẫn đảm bảo ISO vậy.
Thịt bò thì không phải là bò sợi hay bò viên mà là bò miếng. Miếng thịt để to bản nhưng được thái dày vừa phải. Sau khi tẩm ướp chán chê với muối, đường, sả, gừng, tỏi, dầu hào, ớt bột hoặc ớt tươi, để qua một đêm. Sau khi vớt ra và để ráo mới cho vào nướng trong lò hoặc rán, tùy từng nơi. Lá lách thì cũng gần như vậy. Nước trộn thì cũng chỉ có dấm, nước mắm, xì dầu, mì chính, đường, ớt mà thôi. Còn tỷ lệ thì mỗi nơi mỗi khác, tôi cũng mới chỉ dò ra được đôi chỗ, xin giữ làm của riêng kẻo lại bị kiện bản quyền.
Hồi còn bé, gần nhà tôi có 1 bà bán nộm, mọi thứ bà làm từ đầu đến đuôi, làm ngon lắm, mà bán có 1.500đ một đĩa (1997). Có những hôm tôi rủ bạn đi học, trên đường đi tôi ăn 1 đĩa, đến nhà bạn rồi, đi về phía trường lại ăn thêm đĩa nữa. Học xong ra cổng lại ăn thêm đĩa nữa. Về đến nhà rồi, ngồi xem hoạt hình Thủy thủ mặt trăng xong cũng lại ra ăn đĩa nữa. Sao tôi giàu thế !
Lớn lên rồi, tôi được mở mang tầm mắt hơn. Tôi biết đến những nộm Bờ Hồ, nộm Mã Mây (Hàng nộm ở Bờ Hồ và Mã Mây vốn là đồng tộc, đều thuộc dòng nộm Ông Tàu Đen - Long Vi Ổn mà ra cả. Hiện nay hàng Nộm Long Vi Ổn ở Bờ Hồ đã chuyển về Đường Thành, tranh chấp nhau đến mệt, chỉ khổ thực khách!) Các quán mới mở mà có danh tiếng, chắc chỉ có Nộm Hàm Long hay chợ Hôm mà thôi. Phải nói một điều chân thật là Nộm Hàm Long không ki bo và tằng tiện đến mức cho ít nước trộn như ở Bờ Hồ và cũng không đắt đỏ như ở Mã Mây. Dù cho danh tiếng mấy đời các ông ba tàu gây dựng thế nào đi nữa, em cũng xin chào các ông, tại các ông độc quyền quá thôi ạ , hi hi.
http://www.facebook.com/notes/tu-ha/lach-cach-lach-cach-nom-o-/463487920465
Chủ Nhật, 22 tháng 8, 2010
Lại bàn về Phở
Chúng ta đều đồng ý rằng Phở xuất phát từ Nam Định nhưng Hà Nội là mảnh đất khiến cho Phở thăng hoa. Chưa nói đến chuyện phở ở đâu ngon hơn ở đâu, trước hết, phải khẳng định rằng Phở là món ăn truyền thống Việt Nam, là món đặc trưng nhất trong cái mâm cỗ vô vàn món của người Việt.
Điểm qua về lịch sử phát triển của Phở âu cũng là cần thiết. Nhưng ở đây, chỉ xin phép được đưa ý kiến cá nhân về Phở mà thôi.
Không riêng gì Phở mà bất cứ thứ gì cũng vậy. Khi mới sinh ra phải trải qua một thời gian, quá trình rồi mới dần định hình, định tính được. Nói vậy để biết rằng thứ gì cũng sẽ phát triển, đó là lẽ tất nhiên. Nhưng cái gì là đúng, cái gì là sai thì lại thật khó nói. Cụ Thạch Lam ngày trước khi nói về Phở trong "Hà Nội băm sáu phố phường" đã từng phê phán phở gà. Ở cái thời đó, khi mà Phở dần có thêm các diện mạo mới: trâu, lợn và cả gà thì Phở trâu, phở lợn là chết yểu hơn cả. Duy có phở gà là tồn tại, khỏe và đẹp. Dù rằng trong con mắt của Thạch Lam, phở gà ... không phải chính đạo nhưng nó cũng đã tồn tại đến tận ngày nay, có khi còn lấn át cả phở bò.
Chuyện bò, gà hay đà điểu cái nào hơn cái nào cũng thực khó nói. Người thì theo khoa học hiện đại, cho rằng thịt trắng thì tốt cho sức khỏe hơn thịt đỏ, và dần già họ nghiêng về phở Gà. Ấy thế là các quán Phở Gà dần dần mọc lên, lâu ngày đã tạo thành những "dòng phở gà". Có những người thì ham lạ, lại thử đem thịt đà điểu vào để ăn kèm với phở. Nhưng cái thức thịt dai nhanh nhách ấy thật khó mà quyện vào vị Phở được, thế là phở đà điểu chết ngay tắp lự. Còn phở bò, thứ phở vốn được coi là dòng chính thống thì sao? Ôi, qua rồi cái thời của Tứ đại danh gia phở Hà Nội: "Vui- Sướng - Ngon - Nhất". E rằng phở bò ngày nay nhiều khi chỉ còn dựa trên danh tiếng, thực lực thì chẳng mấy nhà bảo tồn được.
Phở gì thì phở, hàng nào lâu năm có tiếng, có khách quen thì bán đắt hàng lắm, có khi 7, 8 giờ sáng hết hàng là chuyện thường. Một điểm chung của những quán Phở ngon là chỉ bán vào những giờ nhất định (Có một số ít ngoại lệ). Nhưng những hàng nấu chẳng ra gì thì lại hay chế thêm mấy thứ gọi là GIÁ TRỊ GIA TĂNG, nói cách khác là đồ ăn kèm hoặc là mấy mặt hàng thay thế. Chúng ta nên nhớ rằng vào tiệm Phở là để ăn Phở chứ không phải ăn bún, miến hay cơm rang. Nước dùng của phở phải là thứ nước trong, ngọt và thanh mát chứ không béo và ngập ngụa mỡ như đa phần các loại bún hay miến. Cơm thì lại là một phạm trù khác hẳn ! Quán phở thì liên quan gì đến cơm? Phở là phở, cơm là cơm. Những quán kiểu như "Cơm Phở" hay "Bún Phở" hay dã chiến hơn là "Bún Phở Miến Cháo", một khi đã bước chân vào, xin quý vị chớ có gọi phở mà làm mất đi cái vị thanh tao của phở. Phàm những quán nấu nhiều như vậy, đa phần là nấu dở, họa hoằn lắm thì có quán nấu bún ăn tạm được (Nhưng là bún, miến ngan chứ đừng gọi một bát bún trần thịt bò một cách cẩu thả!).
Coi như xong chuyện của bọn tạp nham, giờ lại đi tiếp đến hai ngạch chính là bò và gà. Trước hết, xin nói về ngạch Gà mới nổi !
Phở Gà.
Xuất hiện thì cũng đã lâu, nhiều cửa hàng cũng đã dần gây dựng được danh tiếng. Phở gà Hà Nội kể ra thì vô số hàng, ngon có dở có, nhưng chung quy có thể chia theo hai dòng: một bên nước dùng rất béo, một bên nước dùng rất trong. Ngoài ra còn có thể chia theo gà xé hay gà chặt, cái này là tùy thực khách. Nhưng căn bản vẫn là khác biệt về nước dùng.
Dòng phở mà nước dùng trong thì thường bán vào buổi sáng, khi mà vị giác của thực khách còn chưa hoàn toàn thức giấc, chưa sẵn sàng với những thứ quá ngậy. Dân văn phòng, công sở ưa dòng này vô cùng bởi sự thanh mát của nó. Khởi đầu một ngày làm việc bằng một bát phở gà trong veo thì còn gì thú bằng? Xin thưa là trong veo ở đây không có nghĩa là nhạt thếch đâu ạ. Phở gà vẫn tuân thủ theo nhiều phương thức chế biến của phở bò, căn bản vẫn là ở nước dùng. Vẫn là nước luộc gà và ninh xương thật lâu, có cả xương ống (lợn) và thậm chí có cả xương bò. Để nồi nước dùng được trong, không phải người ta lóc da gà ra rồi mới lột. Bí quyết thứ nhất là chọn gà. Gà nào ít mỡ thì ắt nước dùng sẽ ít béo hơn. Nhưng quan trọng hơn cả là việc điều tiết ngọn lửa và vớt nước béo ra. Sau khi nước dùng đã được ninh tới hồi nhất định, buộc phải giảm nhiệt xuống và giữ thăng bằng. Khi ấy, nồi nước dùng sẽ dần được phân ra các lớp khác nhau, không bị nhộn nhạo, đây là lúc dễ nhất để vớt nước béo ra. Các thứ như hoa hồi, thảo quả, quế chi vẫn được cho thêm. Có hàng kỹ tính, cho cả sá sùng nữa, thật biết chiều lòng khách.
Đại diện cho những hàng như vậy, phải kể đến phở gà Đào Tấn, phở gà Quán Thánh và phở gà Mai Anh. Phở Đào Tấn được cái nước dùng rất ngọt, lại lưu được nồi nước dùng cũng khá lâu nên thường đông khách. Hàng này có bán thêm cả bún thang nữa. Tuy cũng là thứ dùng chung được nước dùng của phở gà, không ảnh hưởng gì đến phở nhưng lại kiến bún không được ngon cho lắm, ăn cho vui miệng, đổi món thì được. Hàng này duy phải cái phục vụ hơi lằng nhằng, giá cả lên xuống thất thường, bà chủ quán lại hơi gắt nữa nên nếu chấm điểm thì cũng được khoảng 8. Kế đến là quán phở ở Quán Thánh, đoạn gần Hòe Nhai. Đây là một trong những quán mà ăn đến thìa nước dùng cuối cùng vẫn thấy được cái hương ban đầu của bát phở. Ngoài ra còn có quán phở Mai Anh ở phố Lê Văn Hưu, hay có khách Nhật, Hàn đến ăn. Phở gà ở đây cho thêm mấy viên mọc, ăn cũng khá ổn.
Đối lập lại với "dòng nước trong" là "dòng nước béo". Cảm quan trước nhất khi thưởng thức dòng này là béo ngậy, thơm và óng ánh vàng. Đa phần các quán phở "dòng nước béo" thường bán vào lúc chiều tối. Và duy chỉ có những quán này mới bán thêm chân gà, cổ cánh, lòng mề, tiết luộc bởi một lẽ đơn giản. Giờ tan tầm đổ đi thì thực khách mới nhâm nhi ăn nhậu được. Ai chà, phải đúng lúc tan sở, phóng xe trên đường đông nghẹt, khói bụi mịt mù mà gặp phải một làn hương từ nồi nước dùng nhà nào len lỏi vào khứu giác thì thật khó mà kiềm lòng. Còn nghi ngờ gì nữa mà không nhanh chóng dừng xe, tạt ngay vào lề đường và nhẹ nhàng ngồi xuống, gọi một bán phở gà ít bánh và thêm một miếng tiết con con. Ôi giời đất ơi, có cao lương mỹ vị gì cũng chẳng sánh bằng. Này nhé, khoan hãy vắt chanh, khoan cho dấm ớt đã. Nhắm nghiền mắt lại mà hít lấy một hơi thật sâu. Thìa đầu tiên, chọn chỗ nước ít béo mà húp. Ruột gan như được rửa qua một lượt, tha hồ mà co bóp nhé. Thìa thứ hai, chọn chỗ nhiều nước béo mà húp. Răng môi, lưỡi họng như được bôi trơn vậy, bao nhiêu giác quan lúc bấy giờ thực là có cơ hội mà phát tiết ra vậy. Bấy giờ, húp thêm một thìa nước dùng thứ ba để cho mọi thứ như tan chảy cả trong người. Giờ mới là lúc thêm chanh, dấm, ớt.
Dòng này thì có ba nơi không thể không kể đến. Thứ nhất là phở gà nhà bà Lâm ở Nam Ngư, 3 chị em thay nhau bán bao nhiêu năm nay rồi. Quán bà Lâm bán từ sáng đến 8h tối, lúc nào cũng đông khách. Ở Nam Ngư có 2 quán liền kề nhau, quán nào nhỏ hơn mà đông khách hơn, ấy là quán bà Lâm! Thịt ở đây xé cũng ngon mà chặt cũng ngon, thôi không kể đến nữa. Thứ hai là quán phở chặt trên phố Tôn Đức Thắng, miếng thịt ngon từ da đến thớ. Tuy nước dùng ở đây không hẳn là độc đáo, nhưng thịt thì đúng là không có chỗ thứ hai. Thực khách đến đây cũng thường bị nhầm bởi có 2 quán gần nhau. Thực ra thì cũng không chênh lệch nhau là mấy, nhưng không hiểu do danh tiếng lâu năm hay tiện chỗ để xe mà một quán bán lúc nào cũng chạy hơn, khi nào bán hết thì quán kia mới bắt đầu bán chạy. Cuối cùng chính là phở gà 15 Hàng Hòm. Quán này bán đã nhiều năm, cũng chỉ bán có buổi tối, từ 6h đến tận nửa đêm. Tuy chỗ ngồi có hơi khó khăn nhưng thực sự là công sức bỏ ra để ăn bát phở thì cũng đáng. Chẳng thế mà vài tháng lại đây, xung quanh thi nhau mọc thêm hàng quán, nhưng khách quen thì lại thật khó để mà thay đổi cái thú ăn uống của mình, quán vẫn đông như trước.
Thôi cũng đã giữa khuya, hôm nay xin tạm dừng lại ở phần Phở Gà, mong rằng đã làm mãn lòng chư vị.
Xin đừng cưỡng bức em tôi !
Cái ngày mà tôi gặp em lần đầu, tôi không thể nhớ chính xác là khi nào, nhưng tôi vẫn nhớ lần đầu của tôi và em. Chua, chay, mặn, ngọt đủ cả. Lần đầu ấy tính đến nay cũng được tầm 15 năm có lẻ....
Xin đừng làm khổ em thêm nữa, xin đừng cưỡng bức em bằng những thứ mà các người cho là sáng tạo, là độc đáo, là tinh tế, là sành sỏi thêm nữa. Vẻ bề ngoài mà các người cố gắng tạo ra không thể làm em lộng lẫy hơn bởi bản chất của em là chính em, các người không có quyền hay đúng hơn là không đủ trình độ để thay đổi em như vậy. Hỡi những con người kia, hãy thôi cưỡng bức Phở.
Ngày tôi thơ bé, ăn một bát phở là cả một nỗ lực ghê gớm lắm. Gia đình tôi hồi đấy cũng không lấy gì làm khấm khá. Hàng sáng tôi thường lấp đầy bụng mình bằng một chiếc bánh mì hay một nắm xôi con con. Hôm nào mà tôi nhịn ăn tức là hai hôm sau tôi ăn Phở. Tôi chẳng nhỡ rõ thời điểm mà tôi ăn bát phở đầu tiên nữa, và cũng chẳng thể nào nhớ nổi hình thù của bát phở đó như thế nào. Nhưng đâu đó trong tôi vẫn còn lưu được hương vị ấy, Phở của mười lăm năm về trước. Nói như vậy không có nghĩa rằng 15 năm trước là lúc Phở ngon nhất. Phàm mỗi khi thưởng thức một thứ gì đó, ai nấy đều có cảm nhận riêng, mỗi thời đại lại mỗi khác nên khó có thể nói rằng Phở thời nào là ngon nhất. Nhưng thôi, nếu đã có một cái gì đó đáng để đặt làm chuẩn mực thì ta cũng chẳng nên bỏ phí vậy. Một món ăn đã được nâng lên mức độ thần thánh như Phở mà không có thước đo thì phí quá, phí quá!
Vậy làm sao để xây dựng được thước đo cho Phở đây? Vớ vẩn, huyền hoặc, không tưởng. Đã bảo rồi, mỗi người ăn sẽ có cảm giác khác nhau, gò bó làm gì cho mệt. Ừ, ngẫm ra cũng đúng. Nhưng nếu không có cái gì để phân biệt thì Phở, Bún với Bánh đa có khác gì nhau? Có khác gì cám lợn? Đến cám lợn còn phân rõ nhãn mác nữa là món ăn Quốc hồn Quốc túy! Thôi thì chả dám được bát Phở như các cụ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng hay Băng Sơn. Chỉ mong ăn được một bát phở, chính xác là Phở chứ không phải cái gì na ná như Phở!
Cái thuở đất nước mình còn nghèo khó thì ăn Phở là vi phạm chính sách lương thực, là sa hoa, là lãng phí. Nhưng cũng có thời thì Phở là "thứ quà ăn suốt ngày của tất cả các hạng người, nhất là công chức và thợ thuyền. Người ta ăn phở sáng, ăn phở trưa và ăn phở tối...." (Thạch Lam) Nhưng chao ôi, ăn chui ăn lủi hay phổ thông, bình dị thì vẫn là ăn bát Phở. Bây giờ thừa thãi, dư dả nên đâm ra sinh tiêu cực, nhiều lúc ăn bát phở mà không gắp nổi đũa thứ hai. Nói không thì lại bảo tôi điêu ngoa, thôi để tôi hạch tội ra đây rồi đường ai nấy phán.
Đã có thời cái tư tưởng kinh doanh làm ô uế đi cả một môn nghệ thuật - Ca trù. Kinh doanh là tốt, rất tốt, phải kinh doanh thì xã hội mới phát triển, thì đất nước mới sánh vai với các cường quốc năm châu được. Ca trù là một môn nghệ thuật bác học. Phở là một món ăn bình dân. Nhưng dường như cả hai đều đã phải chịu chung một số kiếp, khốn nạn thay ! Ờ thì ngày xưa phố Khâm Thiên nổi danh là thế, nhưng rồi kết cục thế nào? Và ngày nay, Phở cũng vang danh thế giới, nhưng rồi kết cục sẽ ra sao? Vì hiểu nhầm mà Ca trù bị gián đoạn nửa thế kỷ rồi đấy. Thế còn em phở? Nếu cứ tiếp tục đầu độc bàn dân thiên hạ thế này thì sớm muộn gì cũng tự gián đoạn mà thôi.
Bây giờ tôi túm cổ từng thằng một đã. Thằng đầu tiên là thằng phở 24. Tôi tự hỏi là làm quái gì mà nhiều loại gia vị đến thế nhỉ? Ngay đến những thang "Thập toàn đại bổ" thì con số cũng chỉ là ước chừng. Ngồi đếm từng li từng tí thế thì có hai khả năng: anh là người cẩn trọng, tỉ mỉ, rất chuẩn mực hoặc anh là thằng ki bo, đếm nút dây thừng. Rồi sau này lại nghe thêm nhiều chuyện khác, nào là 24 ngàn một bát nên gọi là phở hai tư. Nào là quán đầu tiên mở ở nhà số hăm bốn nên gọi là phở hăm bốn. Không hiểu đây là toan tính của "gã bán phở" hay là ngẫu nhiên. Nhưng dù thế nào đi chăng nữa, nó cũng đã vô hình khoác lên em tôi một vỏ bọc của thời đại công nghiệp. Quá hào hoa, quá lộng lẫy và quá chớp nhoáng - hay như các bạn bây giờ vẫn nói là "tàu nhanh"
Nói đi thì cũng phải nói lại, bè lũ các ông Hăm bốn, Vuông, Tròn, Bầu Dục đã tâng bốc, bợ đỡ em Phở lên tầm thế giới. Nhưng nói thật với các ông, cái hệ quả mà các ông tạo ra, cái hệ quả thể hiện rõ bản chất toàn cầu hóa đấy không phải là Phở các ông ạ. Các ông có biết Phi Thanh Vân chứ? Cái gì mà ười ẹp dao kéo ấy ấy! Các ông biến phở ra nông nỗi ấy mà coi được à? Hả? Vậy thì các ông thu được những gì từ việc đem Phở ra thế giới ngoài việc ăn phần trăm hàng tháng do nhượng quyền thương hiệu? Có lần tôi ra nước ngoài, vì nhớ Hà Nội mà không kiềm được lòng mình, bèn bước vào một quán phở 24, chỉ mong ăn được một miếng để thỏa nỗi nhớ nhà. Thế quái nào đang ăn mà muốn về nước quá, muốn da diết, muốn mãnh liệt luôn các bạn ạ. Cái hương vị ấy, đúng cái mùi bánh đa chan nước sôi, giá mà thêm tí cà chua với mỡ lợn vào thì không lẫn đi đâu được. Ôi thật là muốn về nước lắm lắm.
Ừ thì thời gian sẽ làm mọi thứ thay đổi. Con người cũng có thể tốt lên cơ mà. Sao mà Phở càng ngày càng chán thế. Hay chăng những tính toán thiệt hơn, những thăng trầm của vi en in đếch cũng khiến cho bát phở bị ảnh hưởng theo? Kể tên các ông ra, cũng chẳng phải là để liệt tội bởi tôi làm gì có được cái quyền liệt tội các ông. Âu cũng là van nài các ông mà thôi. Phàm khi đã làm cái gì tâm huyết thì người ta sẽ không dễ dãi với nó. Khi đã tự buộc mình phải khắt khe với nó, ắt sẽ được mọi người coi trọng. Ông Phạm Bằng bán bánh trôi được không phải là vì cái danh nghệ sĩ của ông ấy. Cụ Nguyễn Bảo Nguyên theo đuổi nghiệp truyền thần mấy chục năm trời là vì sao? Chắc các ông, những kẻ nhanh tay nhanh mắt vớ bở được thương hiệu Phở sẽ chẳng thể tìm ra đâu. Các ông sẽ nói rằng mình cũng đả bỏ ra công sức, cũng đã mất ăn mất ngủ. Nhưng có lẽ, là mất ăn mất ngủ vì tiền chứ không phải vì Phở. Nhưng cũng không thể trách tội các ông được, âu cũng là tại bản thân Phở mà thôi. Hồng nhan thì bạc mệnh mà . . .
Ấy là tại hôm nay, nghe tin về Phở bò kobe, khác nào đem khoác trang sức pha lê, ví da hàng hiệu lên một cô gái thôn quê vận váy nâu sòng. Giận cá chém thớt, mượn tạm các ông để tỏ rõ tấm lòng vậy. Khi khác xin được bàn tiếp về trăm nhà làm Phở trên cái đất Hà Thành này.
..
....
......
Mấy dòng cuồng ngôn phía trên là do cảm xúc lẫn lộn mà ra. Bà con nào có đọc được xin chớ phạt vạ em. Em sẽ sớm có bài phân tích thiệt hơn tỉ mỉ cho các bác trong nay mai, mong các bác không chê mà thôi.
Chủ Nhật, 8 tháng 8, 2010
Văn tế thập loại bằng hữu
Mấy bữa trước, định rủ bạn bè đi chơi nhưng sắc khí nhợt nhạt, mồ hôi đầm đìa, u sầu ủ rũ, lòng tưởng chừng như tận thế. Lệ rơi không ngớt, sổ ruột nát gan. Hôm qua ngóng chờ, tưởng chừng được một phen thỏa chí, ngờ đâu mừng hụt, bèn viết bài văn đem ra mà tế, tế rằng:
Than ôi! Từ độ vào FPT, xa lìa bạn cũ, buồn vui một mình, lấy ai thổ lộ. Đến khi gặp lại các người, rảnh thì vào thăm thú, dốc bầu ruột gan, nem chua, gà nướng. Thấm thoát ngày tháng xuân thu bốn độ, nay chẳng đoái hoài, đột nhiên rời bỏ.
Than ôi! Đâu phải đường xa bước đi không tới. Mỗi người lưu lạc mỗi phương, hẳn có duyên cớ. Thánh nhân vốn đã có nhời răn rằng: Xa mặt thì cách lòng, môi hở thì răng lạnh. Chúng ta bấy lâu không tụ họp, hà cớ làm sao?
Than ôi! Đường đi lắt léo, bụi khói tung giời, sầu ơi khôn ngớt, lấy ai phân trần? Bằng hữu các người nhiều vô kể, nhưng có một ta đây điên điên khùng khùng. Khắp đất bắc trời nam, các người có đi đâu thì hãy nhớ. Rong chơi khắp chốn, ai nấy đều vui, nhưng ta nào có thấy. Người đi thì biệt tích mà kẻ ở thì cũng lặn mất tăm. Những ngày tháng trước, kiếm đâu cho tày?
Nay, xa thì Vu Lan đại lễ(17/8) , gần thì ngày ta đản sinh (14/8), âu cũng là tháng tốt ngày lành, đủ cả thiên thời địa lợi mà lập ra tế văn này. Thôi thì các người ai có lòng có dạ, thứ 7 này chung chén cùng ta . . .
Than ôi! Gục đầu cúi viết, gọi bạn về đây!
Phục duy thượng hưởng!
Thứ Ba, 3 tháng 8, 2010
一柱寺
一柱寺はその昔、李王朝時代のタンロン皇城の東部にある
クアンドゥック県タインバオ村という地方に位置していた が、現在、ハノイ市バーディン区のチュアモットコット通 りにある。
一柱寺は「大越史記全書」によると、李太宗帝の時代の1 049年に建設されたという。「冬の10月に延祐寺を築 いた。昔、皇帝は観世音が蓮花臺に座しており、そして皇 帝を蓮花臺まで連れて行ったという夢を見たという。
起床した後、各官吏に話したところ、不運の兆しであると 考えたものもいた。善恵坊主様は寺を建設し、真ん中に石 柱を立てあげてその上に夢で見た観世音の蓮花臺を設置す るように勧めを出したという。」
一柱寺とよく呼ばれている蓮花臺は、各辺3mの四角形を し、曲線の屋根を有している。そして、地上高4 m、直径1,2 mの円筒形の石柱の上に建てられている。石柱は2つのブ ロック構造で巧みに組み合わされているので、一見して一 個の岩のように見える。寺全体が1本の石柱の上に設置さ れるのは、一柱寺の建築様式の特徴である。
この建築様式には、蓮というロマンティックで詩的な想像 力と堅実な土台を持つ木造建築との大胆な結合が潜んでい る。特に、柱から床まで使われる対角の支柱が寺全体をし っかりとしたものにしながら、蓮の葉の舞い上がる屋根と 床の間の完全なる対称といった審美的な効果をもたらして いる。
大地を象徴する四角い池を背景に丸い天、四角い大地)、 寺は仁愛が世界中を照らすという高尚な思想を有している のだ。木・石を結合する建築物は、池、草木といった自然 の景色の中でよりより親しいものとなり、また純粋かつ優 雅な感じを与えている。
その高貴さが感じられる建築は、天地、水、植物の緑と共 有しているので、ここを訪れた人々がそのような背景の中 ですべての悩みを振り払い、澄み切った心情を持つことが できるだろう。
一柱寺は1962年4月28日にベトナムの文化省により 、歴史・建築・美術遺跡と認定された。そして、2006 年5月4日には「ベトナムで最も独特な建築様式の寺」と して、『ベトナム・ギネスブック』に登録された。現在、 正月や満月の日、陰暦の毎月1日などになると、大勢の人 々が一柱寺に祈願に訪れる。また、特に外国人観光者はこ の雄一無二の遺跡に、大変素晴らしい印象を持つという。
一柱寺は「大越史記全書」によると、李太宗帝の時代の1
起床した後、各官吏に話したところ、不運の兆しであると
一柱寺とよく呼ばれている蓮花臺は、各辺3mの四角形を
この建築様式には、蓮というロマンティックで詩的な想像
大地を象徴する四角い池を背景に丸い天、四角い大地)、
その高貴さが感じられる建築は、天地、水、植物の緑と共
一柱寺は1962年4月28日にベトナムの文化省により
Thứ Tư, 14 tháng 7, 2010
HSB - Đệ thập ngũ đản sinh nhật Sử ký
15 Years
Xưa bên Tàu có ông Hạng Vũ từng đập niêu đắm thuyền, gây dựng khí thế lấy 2 vạn quân Sở đánh 20 vạn quân Tần. Ở xứ ta, đất Lam Sơn lại có ngài Lê Lợi, cùng 18 huynh đài kết nghĩa hội Lũng Nhai, sau đánh tan quân xâm lược. Tại đất Kinh kỳ 15 năm về trước, có công tử Bình Trương, Thắng Nguyễn, Cầu Tạ cùng tiểu thư Lan Trần và mấy anh em dựng nên HSB, âu cũng là cho trăm đời con cháu, tạo lập mái trường giảng dạy Kinh doanh. Công lao ấy dẫu không được tạc đá khắc bia thì cũng lắng đọng trong mỗi người, sâu lắng làm sao tả siết!
Nay phải ngày Long thành ta ngập lụt mà hương thân phụ lão chẳng quản đường xa đến với Vạn Hoa lâu, quý lắm thay! Kẻ góp công, người góp sức, ai nấy đều tột độ sướng vui, mừng lắm thay! Đâu những tiết mục dự thi làm Ban giám khảo cân lên đếm xuống? Nào những tiết mục cống hiến khiến cả hội trường phấn khích, hả hê. Tuy vẫn còn sạn bé sạn to, nhưng hết thảy đều là tâm huyết cả.
Giờ mọi sự đã xong, luận công ban thưởng, ai nấy đều rạng rỡ tươi cười. Hai nhất một nhì, quân BA còn kiêm thêm vở kịch, dẫn đầu toàn đội. Võ gậy SE tung hoành tứ phía, nhất văn nghệ nhưng tổng thể Á quân. Sôi động thay màn Hiphop điệu nghệ, HSB ngang hàng với ReM8 tóc xanh. Bá đạo túc cầu cùng bài ca lên rẫy, cán bộ FU chen chân đồng hạng. Dẫu là Trạng Nguyên hay Bảng Nhãn, Thám Hoa thì các đội vẫn một nhà đoàn kết.
Nhớ ngày nào chưa thi đấu, các đội còn bỡ ngỡ chuẩn bị hậu cần, chiêu binh mãi mã. Đội thì sẵn nhân tài vật lực tuyển hàng loạt kiện tướng quốc gia. Bên thì loay hoay sau trước, cốt sao quân số trên mười. Người thì chập chững tâng trái cầu mây, kẻ thì lần đầu vung tay đập bóng. Tuyển thì cờ quạt băng rôn, đoàn thì tung hô bát nháo. Tuy vài trận heo hút người xem nhưng đa phần thì vô vàn khán giả. Nào đâu những trọng tài quên cả tỷ số, vì cổ động viên nên bắt hụt nhiều phen. Còn đâu những trận đấu hăng say, mặc trời mưa còn ta thì cứ chiến. Ôi, hào hứng lắm thay, náo nhiệt lắm thay. Chà, vui mừng biết bao, tự hào biết mấy.
Thôi pháo nổ vang phòng lấp lánh ánh kim, người người thổi nến. Bánh mừng vui đã chia bé sẻ to, nhà nhà cùng hưởng, biết bao giờ mới có lại hôm nay? Nhớ lắm thay, tiếc tiếc lắm thay . . .
Thôi thì thương nhớ hoài, chìm trong ảo mộng cũng chẳng phải cách hay. Chi bằng từ mai lại ra sức luyện rèn để sau này luận công ban thưởng. Nay khởi sự mới hơn được chục năm, còn sau nữa ngàn gian nan sóng gió. Có gì hơn sự nhất trí đồng lòng, vì lý tưởng mà quên mình cống hiến? Chẳng gì sánh tình chiến hữu một nhà, vững niềm tin và ngang vai sát cánh. Thời thế tạo anh hùng hay anh hùng tạo thời thế, gánh nặng này là của HSB.
Muôn sự hôm nay ghi lại đấy, công tội dở hay để đời sau phát xét.
Thập Ngũ Niên Như Như Bàn Thạch
Lập Cơ Đồ Vạn Vạn Đồng Tâm
Tử Hà
Thứ Bảy, 26 tháng 6, 2010
Gửi một tâm hồn đồng điệu
Hà Nội trong tôi - Bùi Việt Hưng (1978 - 2005)
Đó là một chàng trai Hà Nội, anh lớn hơn tôi đúng 1 giáp, chúng tôi đều tuổi ngựa. Đây là điểm chung đầu tiên giữa tôi và anh.
Chưa một lần được gặp anh và chắc chắn sẽ chẳng thể nào gặp anh được nữa bởi anh đã trả hết nợ đời rồi. Nhưng qua những câu chuyện, những hình ảnh mang dáng dấp của anh, qua tình yêu vô bờ bến mà người chị Domino dành cho anh, tôi đã phần nào hiểu anh hơn. Anh ấy là Bùi Việt Hưng.
Sáng nay, rằm tháng năm. Gia đình anh, bạn bè và cả những người quý mến anh tụ họp tại 16 Ngô Quyền để cùng ngắm nhìn những bức tranh anh vẽ, ngắm nhìn những thứ mà người cha đáng kính của anh đã vô cùng trân trọng " thành quả lao động của Hưng ".
Đã có lúc tôi lặng mình đi, dòng người xem tranh hối hả, tấp nập như chẳng thể chạm nổi vào tâm trí tôi. Tôi bẵng người đi vì một lẽ giản đơn. Tôi và anh có quá nhiều điểm chung. Giá mà cho tôi vài trăm trang giấy thì chắc cũng liệt kê được, nhưng thật khó, thật khó bởi cảm xúc cứ sô bồ, cứ dạt dào, gợi nhau lên rồi lại cuốn trôi đi, tan biến để rồi ghi nhớ mãi.
Trong vô vàn những suy nghĩ, tính cách trùng lặp ấy, tôi nhận ra rằng cái đồng điệu hơn cả chính là tình yêu với mảnh đất chôn nhau cắt rốn, là tình yêu đối với Hà Nội. Âm thầm, lặng lẽ nhưng cũng mãnh liệt và cá tính. Bùi Việt Hưng đã, sẽ khiến chúng ta phải suy ngẫm nhiều. Người thân của anh tự hào, bạn bè của anh tự hào, những người yêu mến anh cũng tự hào. Trên cõi đời này, trên mảnh đất này đã có một Bùi Việt Hưng. Tấm bưu thiếp mà hôm nay cô Chi đưa cho tôi là hình ảnh cầu Long Biên, ngay phía sau nhà tôi. Và khi nãy, tôi nhìn ngắm cây cầu. Cũng góc nhìn ấy, bến nước ấy nhưng sự vật đã khác rồi, con người cũng đã khác rồi.
Khi nhìn ngắm những bức tranh của anh. Khi loay hoay ngó nghiêng những mô hình của anh, tôi lại thấy mình, chính mình chứ không ai khác. Cũng không rõ nữa, tôi như mơ hồ. Tôi sung sướng, xúc động khi thấy mọi người quan tâm đến tranh của anh. Bồi hồi và nghẹn ngào khi thấy tranh của anh sống lại bao nhiêu, tôi càng ngỡ ngàng, kính phục anh bấy nhiêu. Đôi lúc, thoáng trong tôi là sự không hài lòng, là sự khó chịu với một vài người đã không thưởng thức tranh của anh một cách lịch sự.
Và bởi chính sự đồng cảm ấy, tôi cũng xin được thay anh gửi lời tri ân đặc biệt đến người chị của anh - Cô Domino, người đã vẽ lại hình ảnh của anh trong mắt chúng tôi.
.
..
...
Anh đã đi, nhưng anh đi đâu? Dù đi đâu thì cũng hãy luôn mỉm cười anh Hưng nhé. Vẫn hiện hữu đâu đây dáng dấp của anh. Vẫn luôn còn cha mẹ, người thân, bạn bè anh. Và cả em nữa, một người dưng thầm kính phục anh.
Mong được gặp anh dù chỉ là trong tiềm thức.
Xin mạn phép được chào anh một câu anh nhé!
Chào anh, chào Bùi Việt Hưng!
------
Hà Nội, một ngày rằm lất phất mưa.
Tử Hà
Thứ Năm, 24 tháng 6, 2010
Quyết tâm thư
Quyết tâm thư, thay mặt Liên quân thể thao BBA gửi lên các bô lão HSB!
____________
Kính gửi: Các Thầy- Cô, Các Anh, Chị thân mến!
Sử chép xưa có Hưng Đạo Vương chăm lo rèn binh luyện tướng, thanh niên trang tráng đều cần mẫn kiếm cung. Đến thời Hồ Chủ tịch lại không ngừng kêu gọi toàn dân luyện tập thể dục thể thao tăng cường sức khỏe. Há phải các vị ấy tự theo ý riêng, đem cái thú của bản thân mà ép buộc cho muôn dân trăm họ? Làm như vậy cốt là để mưu nghiệp lớn, gìn giữ sức khỏe người người, lấy gốc rễ mà gây dựng thiên hạ, mà bồi đắp đất nước.
Huống chi HSB là nơi long đàm hổ huyệt, nhân tài quy tụ như trúc núi Nam mà mênh mang như nước Đông hải. Anh chị em quấn quít thân tình nào khác chi Lưu Bình – Dương Lễ. Đại gia đình HSB vốn đã qua mười lăm năm tuế nguyệt, nay lại đón thêm người em BBA. Dẫu có tích Châu về Hợp phố, Kết nghĩa Đào viên thật thì quả xứng để sánh ngang. Xem khắp nước Nam ta, nào nơi đâu có được sự sinh sôi thần kỳ ấy?
Đứa bé từ trong nôi mới chập chững thì nào có thể bước được xa vạn dặm, nào có đủ sức mà kéo căng Quốc kỳ. Ví như được đàn anh dẫn dắt chỉ bảo, vậy có khác nào Phù đổng Thiên Vương, nhún nhẹ vai mà thân cao ba trượng dẹp yên bờ cõi. Huống chi nay là tiết Hè oi ả, lại nhân dịp có Đại hội thể thao, chẳng phải là cơ hội tốt cho trên dưới thuận đồng, gái trai niềm nở, lớn bé vui mừng hay sao? Dẫu nắng trời có gắt nhưng cũng không ngăn được ý chí chúng ta, gió lào có mạnh cũng chẳng làm tan chảy lòng quyết tâm của chúng ta. Xem khắp hội hè quanh năm, thực là lúc sĩ khí đang cao ngất, đúng là thời khắc khua chiêng mở hội.
Sân cỏ thì có bóng đá, sân gạch thì có cầu lông. Sàn gỗ có bóng chuyền, cầu mây, dưới nước lại tha hồ ngụp lặn. Ôi kỳ thú lắm thay, náo nhiệt lắm thay. Vậy mà đàn em giờ vẫn chỉ loanh quanh như kiến bò trong miệng chén, khác nào ngồi trên đống lửa mà thiêu ruột đốt gan. Chung quy cũng chỉ là lo cho anh em không có chiến bào ra trận, súng gươm giáo mác không được chỉnh tề. Dẫu có lăn xả sa trường thì tinh thần cũng cạn kiệt. Nay đem hết lòng dạ ra mà viết thư này, mong bề trên soi xét.
Tử Hà
Hoàng Anh Đức
Kính thư
Đại khai sát giới
Nhà mỗ có một con gián, mỗ gọi nó là Tiểu Cường, vì con này to mà khỏe lắm. Lại có vài con khác nữa là A Giáp, A Ất, A Bính và A Đinh. Năm chàng mà đi với nhau thì y như rằng là xôn xao đình đám, chuyện kể không biết đến bao giờ cho hết.
Hôm nay mỗ vừa về đến nhà, chưa kịp nghỉ ngơi tắm rửa gì thì A Ất đã bay vèo qua mà hỏi thăm. Tiên sư, nó mới ăn vụng được cái gì ở đâu mà bay nhanh thế, cứ nhằm thẳng mặt mình mà lao. Lại nhằm đúng lúc bổn công tử đang ngáp. May mà có võ nên mới loát thân né được, không thì lại phí mất cả ngày ăn chay mừng Phật đản.
Nói đoạn Tiểu Ất tập kích tôi không thành, y lượn vòng lên trần nhà, chỗ cái đèn chùm tỏ vẻ thú lắm. Đôi cánh bóng lộn của y bấy giờ chẳng vỗ nữa mà im lìm bất động. Mỗ nhìn mà lòng xốn xang, nhớ lại cốc thạch mà hôm bữa được khao vọng, há chẳng phải cái màu này thì là màu chi? Vậy thôi nhé, lần sau bằng hữu nào có ý mời mỗ xơi thạch thì xin kiếu nhé, mỗ nhìn thấy thạch là nhớ ngay A Ất.
....
Thần trí tĩnh lặng được một hồi, mỗ giở túi thịt bò khô ra nhấm nháp. Vì hôm nay mỗ ăn chay nên thịt bò khô này cũng là thịt bò khô chay. Ái chà chà, cái vị của nó cũng thú đáo để. Mỗ ăn 1 miếng, 2 miếng rồi 3 miếng mà vẫn muốn ăn tiếp. Nhưng thấy vẫn chưa đủ vị, mỗ liền lao như cắt ra tủ bảo ôn mà sẻ nửa trái chanh, kiếm thêm tí chua chát cho món cay cay kia. Ấy thế mà khi gần đến tủ bảo ôn, mỗ lại bị tập kích một lần nữa, lần này là A Cường. Không hiểu A Cường có ý gì, hay là thèm chua nên mới bay ra tấn công mỗ, nhìn thế này thì rõ là Long Chiến Vu Dã trong Giáng Long Chưởng rồi. Nhưng mỗ nào có chịu thua! Nhanh như cắt, mỗ cầm nửa trái chanh ném về phía Tiểu Cường. Ám khí này vừa to vừa lạnh lại thêm phần chua chua, Tiểu Cường phải làm sao để đỡ đây?
Nói đoạn Tiểu Cường thấy mỗ đã động thủ liền tăng tốc hòng tốc chiến tốc thắng. Mỗ cũng nhanh tay chả kém, vận hết nội lực vào 3 đầu ngón tay, chỉ pháp ảo diệu khiến quả chanh bắn nước ra, muôn vạn tia ám khí bay tới Tiểu Cường. Ám khí của mỗ không biết từ đâu đến, không biết đi đến đâu, cái mạnh cái yếu, lại có độc dược a xít, thật là đệ nhất ám khí. Đường môn tứ tuyệt khí e cũng khó sánh bằng ! Tiểu Cường phải làm sao để đỡ đây?
Thiên ngoại hữu thiên, Tiểu Cường tuy nhạy bén khác gián, cơ trí hơn ruồi nhưng khi gặp phải ám khí này cũng 8, 9 phần e sợ. Hắn bay loạng choạng rồi rơi xuống bịch một cái. Mỗ nhân tiện đôi dép mới mua, liền vận Xích cước thần công, một cước đạp bẹp Tiểu Cường. Tiểu Cường phải làm sao để đỡ đây?
......
Hôm nay mỗ vừa về đến nhà, chưa kịp nghỉ ngơi tắm rửa gì thì A Ất đã bay vèo qua mà hỏi thăm. Tiên sư, nó mới ăn vụng được cái gì ở đâu mà bay nhanh thế, cứ nhằm thẳng mặt mình mà lao. Lại nhằm đúng lúc bổn công tử đang ngáp. May mà có võ nên mới loát thân né được, không thì lại phí mất cả ngày ăn chay mừng Phật đản.
Nói đoạn Tiểu Ất tập kích tôi không thành, y lượn vòng lên trần nhà, chỗ cái đèn chùm tỏ vẻ thú lắm. Đôi cánh bóng lộn của y bấy giờ chẳng vỗ nữa mà im lìm bất động. Mỗ nhìn mà lòng xốn xang, nhớ lại cốc thạch mà hôm bữa được khao vọng, há chẳng phải cái màu này thì là màu chi? Vậy thôi nhé, lần sau bằng hữu nào có ý mời mỗ xơi thạch thì xin kiếu nhé, mỗ nhìn thấy thạch là nhớ ngay A Ất.
....
Thần trí tĩnh lặng được một hồi, mỗ giở túi thịt bò khô ra nhấm nháp. Vì hôm nay mỗ ăn chay nên thịt bò khô này cũng là thịt bò khô chay. Ái chà chà, cái vị của nó cũng thú đáo để. Mỗ ăn 1 miếng, 2 miếng rồi 3 miếng mà vẫn muốn ăn tiếp. Nhưng thấy vẫn chưa đủ vị, mỗ liền lao như cắt ra tủ bảo ôn mà sẻ nửa trái chanh, kiếm thêm tí chua chát cho món cay cay kia. Ấy thế mà khi gần đến tủ bảo ôn, mỗ lại bị tập kích một lần nữa, lần này là A Cường. Không hiểu A Cường có ý gì, hay là thèm chua nên mới bay ra tấn công mỗ, nhìn thế này thì rõ là Long Chiến Vu Dã trong Giáng Long Chưởng rồi. Nhưng mỗ nào có chịu thua! Nhanh như cắt, mỗ cầm nửa trái chanh ném về phía Tiểu Cường. Ám khí này vừa to vừa lạnh lại thêm phần chua chua, Tiểu Cường phải làm sao để đỡ đây?
Nói đoạn Tiểu Cường thấy mỗ đã động thủ liền tăng tốc hòng tốc chiến tốc thắng. Mỗ cũng nhanh tay chả kém, vận hết nội lực vào 3 đầu ngón tay, chỉ pháp ảo diệu khiến quả chanh bắn nước ra, muôn vạn tia ám khí bay tới Tiểu Cường. Ám khí của mỗ không biết từ đâu đến, không biết đi đến đâu, cái mạnh cái yếu, lại có độc dược a xít, thật là đệ nhất ám khí. Đường môn tứ tuyệt khí e cũng khó sánh bằng ! Tiểu Cường phải làm sao để đỡ đây?
Thiên ngoại hữu thiên, Tiểu Cường tuy nhạy bén khác gián, cơ trí hơn ruồi nhưng khi gặp phải ám khí này cũng 8, 9 phần e sợ. Hắn bay loạng choạng rồi rơi xuống bịch một cái. Mỗ nhân tiện đôi dép mới mua, liền vận Xích cước thần công, một cước đạp bẹp Tiểu Cường. Tiểu Cường phải làm sao để đỡ đây?
......
Tử Hà lăng xăng tâm lĩnh [2] - Các trò du hí
Phần một với vài ba bài trà, thuốc giản đơn có vẻ cũng có ích. Nay xin viết tiếp phần 2, muôn phần vô tích sự, tuyền là các trò ảo thuật, du hý thời xưa mà Tử mỗ lượm lặt được.
1. Vẽ hình trên giấy ban ngày không thấy, đêm mới thấy !
Dùng mật con ngỗng, không được nhúng vào nước. Bỏ mật vào khoảng 1 lạng phèn trắng (bột) cho thấm rồi đem treo trước gió ở chỗ râm mát. Sau đem mài ra nước, hòa với các màu sắc mà vẽ, tất ban ngày không thấy, đêm thấy rõ ràng.
2. Cạo tóc không cần dao:
Thạch hoàng, thạch hôi mỗi thứ 1 lạng. Chương não 2 lạng tán thành bột, hòa với nước bôi lên tóc, đợi khô dùng bàn chải chải, tóc sẽ tự rụng.
3. Cách trồng rau và các loại dưa quả trong chốc lát
Cái này đọc được ở cổ thư, có phần hơi nghi ngờ :p
Dùng trứng gà con so, đục một lỗ nhỏ ở đầu, rút hết lòng đỏ lòng trắng, bỏ hột rau, hột cải vào trong, dùng giấy bao kín rồi cho gà mẹ ấp trong 49 ngày. Nếu một gà ấp không xuể thì thay phiên gà khác ấp cho đủ. Lúc gieo trồng, trước hết lấy một ít bột Lưu huỳnh rắc ở chỗ đất ẩm, sau đó mới gieo hạt giống xuống, cây cải, rau sẽ tự mọc lên ngay.
Lại có cách khác là đem trứng vịt ung hòa với bột đá vôi, đem phơi nắng cho khô. Lúc dùng, trải bột này dưới đáy chậu rồi gieo các hạt giống rau, quả lên. Một thoáng sau, thân mầm vươn lên.
4. Viết chữ nổi trên mặt nước:
Minh phàn (Phèn trắng) 2 phần, Hoàng cầm 5 phần tán thành bột. DÙng bột ấy viết chữ trên giấy rồi thả xuống nước. Giấy rã ra, còn lại chữ nổi trên mặt nước.
5. Dùng khăn tay đựng rượu không chảy:
Trừ loại khăn thưa như vải màn, các loại vải khác đều làm được. Dùng bột phèn trắng hòa với lòng trắng trứng, thoa khắp 2 mặt khăn, ban ngày đem phơi nắng, sau có thể túm lại mà đựng rượu.
6. Rót rượu vào ly không tràn đầy ra ngoài:
Dùng bột Một dược thoa đầy lên vành chén rồi sau đó rót rượu. Dù rượu cao hơn miệng chén 1, 2 phân cũng không tràn ra ngoài.
7. Dây đốt thành tro treo được đồng tiền:
Dùng sợi dây tơ ngâm vào nước muối mặn trong 3 ngày rồi lấy ra phơi khô. Lúc trình diễn lấy dây đó treo 1, 2 đồng tiền (có lỗ để dễ buộc) trên không. Lấy lửa đốt dây, dây cháy thành tro nhưng tiền không rơi.
8. Dụ chuột kéo đến:
Vỏ cua trộn với sơn sống, đem đốt khói tỏa ra, bầy chuột sẽ kéo đến, tùy ý mà hành sự.
9. Nhúng tay vào dầu sôi để lấy đồ:
Bí mật để bột hàn the ở đấy nồi dầu, dù chỉ hơi nóng, hàn the cũng cuồn cuộn như dầu sôi vậy, kỳ thực là chưa nóng gì cả. Tay ngâm vào giấm một lượt rồi thò vào nồi dầu mà mò vật, không hề bị tổn hại.
10. Thắp đèn trên mặt nước:
Chương não 1 phần, tùng hương 5 phần nghiền thành bột, trộn với rượu hâm nóng chế thành miếng mỏng, phơi khô cho giòn, đem thả vào nước đốt, sẽ cháy sáng, không tắt không chìm.
11. Làm ánh đèn có màu nho tía chiếu khắp nhà:
Dùng hương du, chẳng kể nhiều ít đem đổ vào hũ miệng nhỏ, chôn bên giàn nho, ngắt bỏ ngọn một thân nho rồi cắm phần thân dây vào trong hũ dầu, lấy dây buộc chặt, bịt kiếng miệng hũ không cho bay hơi. Rồi đắp ụ đất để bảo vệ miệng hũ và dây nho. 49 ngày sau thì lấy hũ lên, dùng dầu ấy thắp đèn, tất sẽ có ánh sáng màu nho tía rất đẹp.
12. Viết chữ bằng khói:
Tháng 5 lất mật bôi lên lá sen non, lâu ngày các loại sâu tùng sẽ gặm, đục hết thịt lá, chỉ còn lại lớp màng xương như lưới nhện. Ngắt lấy, bỏ cuống lá, đem phơi khô tán thành bột, đem ướp lẫn với các mùi hương. Lúc đốt khói sẽ xông lên thẳng, kết tụ thành vòng tròn không tan. Dùng đầu đũa làm bút mà viết, dẫn khói thành chữ, tụ được khá lâu.
13. Làm cho gà nhà thành gà ngũ sắc:
Dùng một con cá đen khoảng nửa cân bỏ ruột, nhồi đầy lưu huỳnh vào bụng cá, bỏ vào trong nồi hoặc hũ sành sứ đậy kín vào mùa đông. Đến mùa thu lấy ra, băm vụn, để cho gà đói 2, 3 ngày trước rồi mới cho ăn. Gà sẽ rụng hết lông, vài ngày sau mọc lông mới có 5 màu hệt như gà gấm!
__________________________
__
Tại hạ đã lượm lặt được kha khá các trò du hí, trên đây xin trích dẫn 13 trò. Tuy nhiên có trò nào nguy hiểm, khuyến cáo không nên bắt chước, nhà cháu không chịu trách nhiệm :)) !!
1. Vẽ hình trên giấy ban ngày không thấy, đêm mới thấy !
Dùng mật con ngỗng, không được nhúng vào nước. Bỏ mật vào khoảng 1 lạng phèn trắng (bột) cho thấm rồi đem treo trước gió ở chỗ râm mát. Sau đem mài ra nước, hòa với các màu sắc mà vẽ, tất ban ngày không thấy, đêm thấy rõ ràng.
2. Cạo tóc không cần dao:
Thạch hoàng, thạch hôi mỗi thứ 1 lạng. Chương não 2 lạng tán thành bột, hòa với nước bôi lên tóc, đợi khô dùng bàn chải chải, tóc sẽ tự rụng.
3. Cách trồng rau và các loại dưa quả trong chốc lát
Cái này đọc được ở cổ thư, có phần hơi nghi ngờ :p
Dùng trứng gà con so, đục một lỗ nhỏ ở đầu, rút hết lòng đỏ lòng trắng, bỏ hột rau, hột cải vào trong, dùng giấy bao kín rồi cho gà mẹ ấp trong 49 ngày. Nếu một gà ấp không xuể thì thay phiên gà khác ấp cho đủ. Lúc gieo trồng, trước hết lấy một ít bột Lưu huỳnh rắc ở chỗ đất ẩm, sau đó mới gieo hạt giống xuống, cây cải, rau sẽ tự mọc lên ngay.
Lại có cách khác là đem trứng vịt ung hòa với bột đá vôi, đem phơi nắng cho khô. Lúc dùng, trải bột này dưới đáy chậu rồi gieo các hạt giống rau, quả lên. Một thoáng sau, thân mầm vươn lên.
4. Viết chữ nổi trên mặt nước:
Minh phàn (Phèn trắng) 2 phần, Hoàng cầm 5 phần tán thành bột. DÙng bột ấy viết chữ trên giấy rồi thả xuống nước. Giấy rã ra, còn lại chữ nổi trên mặt nước.
5. Dùng khăn tay đựng rượu không chảy:
Trừ loại khăn thưa như vải màn, các loại vải khác đều làm được. Dùng bột phèn trắng hòa với lòng trắng trứng, thoa khắp 2 mặt khăn, ban ngày đem phơi nắng, sau có thể túm lại mà đựng rượu.
6. Rót rượu vào ly không tràn đầy ra ngoài:
Dùng bột Một dược thoa đầy lên vành chén rồi sau đó rót rượu. Dù rượu cao hơn miệng chén 1, 2 phân cũng không tràn ra ngoài.
7. Dây đốt thành tro treo được đồng tiền:
Dùng sợi dây tơ ngâm vào nước muối mặn trong 3 ngày rồi lấy ra phơi khô. Lúc trình diễn lấy dây đó treo 1, 2 đồng tiền (có lỗ để dễ buộc) trên không. Lấy lửa đốt dây, dây cháy thành tro nhưng tiền không rơi.
8. Dụ chuột kéo đến:
Vỏ cua trộn với sơn sống, đem đốt khói tỏa ra, bầy chuột sẽ kéo đến, tùy ý mà hành sự.
9. Nhúng tay vào dầu sôi để lấy đồ:
Bí mật để bột hàn the ở đấy nồi dầu, dù chỉ hơi nóng, hàn the cũng cuồn cuộn như dầu sôi vậy, kỳ thực là chưa nóng gì cả. Tay ngâm vào giấm một lượt rồi thò vào nồi dầu mà mò vật, không hề bị tổn hại.
10. Thắp đèn trên mặt nước:
Chương não 1 phần, tùng hương 5 phần nghiền thành bột, trộn với rượu hâm nóng chế thành miếng mỏng, phơi khô cho giòn, đem thả vào nước đốt, sẽ cháy sáng, không tắt không chìm.
11. Làm ánh đèn có màu nho tía chiếu khắp nhà:
Dùng hương du, chẳng kể nhiều ít đem đổ vào hũ miệng nhỏ, chôn bên giàn nho, ngắt bỏ ngọn một thân nho rồi cắm phần thân dây vào trong hũ dầu, lấy dây buộc chặt, bịt kiếng miệng hũ không cho bay hơi. Rồi đắp ụ đất để bảo vệ miệng hũ và dây nho. 49 ngày sau thì lấy hũ lên, dùng dầu ấy thắp đèn, tất sẽ có ánh sáng màu nho tía rất đẹp.
12. Viết chữ bằng khói:
Tháng 5 lất mật bôi lên lá sen non, lâu ngày các loại sâu tùng sẽ gặm, đục hết thịt lá, chỉ còn lại lớp màng xương như lưới nhện. Ngắt lấy, bỏ cuống lá, đem phơi khô tán thành bột, đem ướp lẫn với các mùi hương. Lúc đốt khói sẽ xông lên thẳng, kết tụ thành vòng tròn không tan. Dùng đầu đũa làm bút mà viết, dẫn khói thành chữ, tụ được khá lâu.
13. Làm cho gà nhà thành gà ngũ sắc:
Dùng một con cá đen khoảng nửa cân bỏ ruột, nhồi đầy lưu huỳnh vào bụng cá, bỏ vào trong nồi hoặc hũ sành sứ đậy kín vào mùa đông. Đến mùa thu lấy ra, băm vụn, để cho gà đói 2, 3 ngày trước rồi mới cho ăn. Gà sẽ rụng hết lông, vài ngày sau mọc lông mới có 5 màu hệt như gà gấm!
__________________________
Tại hạ đã lượm lặt được kha khá các trò du hí, trên đây xin trích dẫn 13 trò. Tuy nhiên có trò nào nguy hiểm, khuyến cáo không nên bắt chước, nhà cháu không chịu trách nhiệm :)) !!
Tử Hà lăng xăng tâm lĩnh [1] - Trà thảo mộc
Canh Dần Niên, Mạnh Hạ
Ngày rộng tháng dài, Tử mỗ đi đó đi đây, học được vài ba cuốn sách. Nay nhân lúc nhàn rỗi mà viết ra vài ba dòng, tạm gọi là có cái để sau này đọc lại, đề phòng khi quên, mặt khác cũng là chia sẻ vài thang, bài thuốc nho nhỏ.
Mọi chỉ dẫn dưới đây đều là do tự ghi chép nên chỉ mang tính tham khảo, có gì sai mong chư vi đại xá cho.
__________________________
_________________
Trời đất vào hạ, khô hanh, nóng nực, cơ thể nhiều khi không tản được nhiệt mà sinh đau ốm. Dưới đây xin dẫn vài bài thuốc, trà có thể dùng cho mùa hạ. Các này đều có thể sắc thành thuốc ngày uống một lần hoặc đun như đun trà, uống thay nước.
1. Tứ Quân Tử thang :
*Bao gồm : Nhân sâm, bạch truật, phục linh mỗi loại 1 phần, cam thảo chỉ lấy một phần tư.
Nhân sâm có hơi cao giá, có thể thay bằng Đẳng sâm, nhưng phải gia tăng liều lượng.
Ngoài ra còn có thể gia giảm các vị như đỗ trọng, kỳ tử, long nhãn để tăng thêm mùi vị.
*Công dụng:
Thích hợp với những người bị tỳ vị khí hư, biểu hiện là sắc mặt vàng héo, tiếng nói nhỏ yếu, tứ chi vô lực, bụng đầy, chậm tiêu, ăn kém, đại tiện lỏng nát. Bài thuốc trên có tên Tứ quân tử thang là do 4 vị đều có tính bình hòa, không nhiệt, không táo, có thể dùng lâu mà không gây tác dụng xấu.
Ngoài ra còn có một số cách gia giảm như sau (Khi đã tăng thêm một số vị, chỉ nên sắc uống, rất khó đun trà!!!) :
* Thêm Bán hạ, Trần bì để trị ho đờm, khó thở. Trường hợp viêm phế quản mãn tính có thể thêm Tử uyển, Khoản đông hoa, Bạch tiền, Bối mẫu để giáng khí, hóa đàm chỉ khái.
* Khi bị tiêu chảy, rêu lưỡi trắng, có thể thêm Trần bì, Chế bán hạ, Mộc hương, Sa nhân (Hương Sa Lục Quân Tử Thang)
2. Lạc Tiên trà:
* Bao gồm: Tâm sen, thảo quyết minh, lạc tiên, trà dây, cam thảo
* Công dụng:
Trị các chứng mất ngủ, giúp an thần, ngủ ngon
3. Kim ngân hoa trà:
* Bao gồm: Kim ngân hoa, lương phấn thảo, mộc miên hoa, bung lai, cam thảo sống
* Công dụng: Giải độc ở phế, tâm, tỳ, vị
4. Bình can giáng hỏa:
* Bao gồm: Hạ khô thảo, cúc hoa, hoa sứ đỏ, la hán quả, cam thảo
* Công dụng: Điều tiết gan mật, âm dương cân bằng, bình can giáng hỏa, giảm đau đầu choáng váng. Lưu thông khí huyết, kích thích tiêu hóa.
Ngày rộng tháng dài, Tử mỗ đi đó đi đây, học được vài ba cuốn sách. Nay nhân lúc nhàn rỗi mà viết ra vài ba dòng, tạm gọi là có cái để sau này đọc lại, đề phòng khi quên, mặt khác cũng là chia sẻ vài thang, bài thuốc nho nhỏ.
Mọi chỉ dẫn dưới đây đều là do tự ghi chép nên chỉ mang tính tham khảo, có gì sai mong chư vi đại xá cho.
__________________________
Trời đất vào hạ, khô hanh, nóng nực, cơ thể nhiều khi không tản được nhiệt mà sinh đau ốm. Dưới đây xin dẫn vài bài thuốc, trà có thể dùng cho mùa hạ. Các này đều có thể sắc thành thuốc ngày uống một lần hoặc đun như đun trà, uống thay nước.
1. Tứ Quân Tử thang :
*Bao gồm : Nhân sâm, bạch truật, phục linh mỗi loại 1 phần, cam thảo chỉ lấy một phần tư.
Nhân sâm có hơi cao giá, có thể thay bằng Đẳng sâm, nhưng phải gia tăng liều lượng.
Ngoài ra còn có thể gia giảm các vị như đỗ trọng, kỳ tử, long nhãn để tăng thêm mùi vị.
*Công dụng:
Thích hợp với những người bị tỳ vị khí hư, biểu hiện là sắc mặt vàng héo, tiếng nói nhỏ yếu, tứ chi vô lực, bụng đầy, chậm tiêu, ăn kém, đại tiện lỏng nát. Bài thuốc trên có tên Tứ quân tử thang là do 4 vị đều có tính bình hòa, không nhiệt, không táo, có thể dùng lâu mà không gây tác dụng xấu.
Ngoài ra còn có một số cách gia giảm như sau (Khi đã tăng thêm một số vị, chỉ nên sắc uống, rất khó đun trà!!!) :
* Thêm Bán hạ, Trần bì để trị ho đờm, khó thở. Trường hợp viêm phế quản mãn tính có thể thêm Tử uyển, Khoản đông hoa, Bạch tiền, Bối mẫu để giáng khí, hóa đàm chỉ khái.
* Khi bị tiêu chảy, rêu lưỡi trắng, có thể thêm Trần bì, Chế bán hạ, Mộc hương, Sa nhân (Hương Sa Lục Quân Tử Thang)
2. Lạc Tiên trà:
* Bao gồm: Tâm sen, thảo quyết minh, lạc tiên, trà dây, cam thảo
* Công dụng:
Trị các chứng mất ngủ, giúp an thần, ngủ ngon
3. Kim ngân hoa trà:
* Bao gồm: Kim ngân hoa, lương phấn thảo, mộc miên hoa, bung lai, cam thảo sống
* Công dụng: Giải độc ở phế, tâm, tỳ, vị
4. Bình can giáng hỏa:
* Bao gồm: Hạ khô thảo, cúc hoa, hoa sứ đỏ, la hán quả, cam thảo
* Công dụng: Điều tiết gan mật, âm dương cân bằng, bình can giáng hỏa, giảm đau đầu choáng váng. Lưu thông khí huyết, kích thích tiêu hóa.
Hạ Lê Anh bằng hữu Đản sinh nhật
賀梨英朋友亶生日 (*)
(Hạ Lê Anh bằng hữu Đản sinh nhật)
Tiếng rằng ai tóc ngắn đấtVăn Lương Thanh Xuân(**),
Đến hôm nay đôi nửa đã ánh vàng,
Vận cọ vẽ trên màn kính bạc
"專修建築長年苦
心望英文弍憑囏"" (***)
"Chuyên tu Kiến Trúc trường niên khổ
Tâm vọng Anh văn nhị bằng gian"
Vẫn sớm tối đêm ngày phây búc,
Tranh tặng bạn, thỏa nỗi nhớ mong
Nào bút tây, nào cọ vẽ, nào eke, thước, tẩy
Giấy galgo to nhỏ cũng đành,
Còn bao nhiêu đồ án chửa thành . ..
Gắng lên, chẳng bõ công mình.
________
(*) 賀梨英朋友亶生日
(Hạ Lê Anh bằng hữu Đản sinh nhật) : Tặng bạn Lê Anh nhân ngày sinh nhật.
(**) Nghe đồn nhà Lê V.Anh cô nương ở đấtLê Văn Lương Thanh Xuân (?)
(***)
"專修建築長年苦
心望英文弍憑囏"" (**)
"Chuyên tu Kiến Trúc trường niên khổ
Tâm vọng Anh văn nhị bằng gian"
Chuyên ngành Kiến trúc đã phải nhiều năm ròng vất vả,
Lại mong muốn học bằng hai tiếng anh, thêm phần gian khó.
(Hạ Lê Anh bằng hữu Đản sinh nhật)
Tiếng rằng ai tóc ngắn đất
Đến hôm nay đôi nửa đã ánh vàng,
Vận cọ vẽ trên màn kính bạc
"專修建築長年苦
心望英文弍憑囏"" (***)
"Chuyên tu Kiến Trúc trường niên khổ
Tâm vọng Anh văn nhị bằng gian"
Vẫn sớm tối đêm ngày phây búc,
Tranh tặng bạn, thỏa nỗi nhớ mong
Nào bút tây, nào cọ vẽ, nào eke, thước, tẩy
Giấy galgo to nhỏ cũng đành,
Còn bao nhiêu đồ án chửa thành . ..
Gắng lên, chẳng bõ công mình.
________
(*) 賀梨英朋友亶生日
(Hạ Lê Anh bằng hữu Đản sinh nhật) : Tặng bạn Lê Anh nhân ngày sinh nhật.
(**) Nghe đồn nhà Lê V.Anh cô nương ở đất
(***)
"專修建築長年苦
心望英文弍憑囏"" (**)
"Chuyên tu Kiến Trúc trường niên khổ
Tâm vọng Anh văn nhị bằng gian"
Chuyên ngành Kiến trúc đã phải nhiều năm ròng vất vả,
Lại mong muốn học bằng hai tiếng anh, thêm phần gian khó.
Văn tiễn nghĩa sĩ Trần Dậu
Hỡi ơi !
Đàn đẫm tiếng buồn,
Lòng người sầu thảm.
Hai mươi năm đèn sách,
Ru rú góc nhà dẫu có ích chi?
Làm một chuyến Đông du,
Tuy xa nước mà học bao điều lạ!
Nhớ năm xưa
Cần mẫn học hành, chăm lo dạo phố
Chưa học được đến 2kyu nhưng cũng đang chập chững
Việc chép, việc nhìn, việc nghe, việc nói
Vốn đã làm quen
Tự nấu, tự lo, tự chăn, tự chiếu,
Tay chưa từng mó
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
Mong tin nhà như nắng hạn trông mưa.
Tình bè bạn xa cách đã đôi năm,
Nhớ cái thuở đã cùng chung lớp học.
Đêm ngắm trăng tròn nơi xứ lạ,
Ngày xem đào biếc lúc tháng tư
Những muốn vui, muốn cười, muốn nói
Một mớ bạn nơi phương nam chờ đợi,
Há chỉ chờ kẻ chỉ biết vấn vương?
Giờ chẳng ai giục, ai mắng
Vẫn tự thân mà gắng sức học hành
Phen này xin ra sức đoạn kình.
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi,
Khá thương thay
Sẽ chẳng được bên cha bên mẹ,
Theo dòng đời tạm đáp cánh phương xa
Chẳng qua là có chí học hành
Lại sẵn bạc nên thôi đành bay vậy
Nào các bên bác mẹ, chẳng đặng ngậm ngùi
Nào mấy đám chị em, không đành quyến luyến
Trong bụng có một bồ tri thức
Nào chịu cho nước mắt mài mòn
Trong tay cầm một mớ thời cơ,
Nào để cho tư tình bịn rịn?
Chẳng phải bắt ép, buộc đi bằng được
Mà vì đi cho thỏa chí vẫy vùng
Nhưng nghĩ rằng
Chăn ấm đệm êm ơn mẹ
Xe ngon nhà đẹp sức cha
Hai mươi năm tồn tại trên đời
Đã làm chi báo ân cha mẹ?
Vì ai khiến thân cha khó nhọc,
ăn tuyết nằm sương ?
Vì ai xui lòng mẹ mệt nhoài,
xiêu mưa ngà gió ?
Sống làm chi theo quân chơi bời
quẳng sách vô gầm, xô nghiêng bàn học
nghĩ lại thêm buồn;
Sống làm chi cái thói la cà,
chia rượu ngọt, gặm bánh mì,
nghe càng thêm hổ.
Thà thác mà đặng câu dịch khái,
về sau tổ phụ cũng vinh,
Hơn còn mà chịu chữ chẩy thây,
lười biếng không đi, rất khổ.
Ôi thôi thôi
Một vé máy bay,
Cả năm cách trở.
Đi mà trả nợ nước non,
Danh thơm chúng bạn đều khen.
Đi mà báo ơn cha mẹ,
Tiếng hay muôn người cùng thưởng.
Ở thì thuận tình, đi thì thuận nghĩa,
Lời dặn ấy đã rành rành
Một chữ nhớ, đủ đền mười hai tháng.
Nước mắt hai hàng, lau chẳng ráo,
Thương vì hai chữ tha hương
Hỡi ơi !
Có đi xin nhớ !
Thăng Long thành,
Canh Dần niên
Tử Hà
Quốc Trung tế tử đản sinh nhật
Sách Đào Tấn chích quái có chép rằng:
Ở Thủ Lệ có con quái trư, cao hơn hai trượng, chân to tựa chân voi, biến hóa thì chẳng khôn lường nhưng khi đi thì ầm ầm như mưa, lại thường ăn nộm bò khô, bánh bột lọc nên ai ai cũng thấy tầm thường.
Con quái trư ấy dung mạo như người, đi ven bờ hồ Thủ Lệ chọn chỗ đất bằng phẳng mà hẻo lánh để định cư, sau biến thành người, biết nói năng, dần dần lớn lên, tốt nghiệp tú tài rồi đậu Đại học. Y thường nhận kết giao bạn bè cả gái lẫn trai, hay rủ rê đàn đúm chơi bời, lại có cả một cô bồ tận bên Úc châu. Hai kẻ này thường thư qua, mail lại với nhau, dẫu tình nghĩa không sâu như nước Đông Hải thì cũng cao tựa núi Nùng.
Con quái Trư ấy từ khi hóa thành người, lại nhân chuyện đỗ đại học, bèn lấy tên là Đỗ Quốc Trung, ý rằng đỗ trường trong nước, chứ không phải trường nước ngoài. Ấy thế mà cái trường của hắn cũng chẳng bình thường. Ra vào thường phải có lệnh bài, ai ai đều cưỡi chiến mã, vàng bạc rủng rỉnh.
Có hòn đá lạ tên là Iphone, con quái trư này dùng để hô phong hoán vũ, gọi bạn kêu bè. Hòn đá này hình dạng bằng phẳng, trơn tuột, trên lại có ký hiệu lạ hình quả táo bị cắn, nghe đồn là do ma pháp của bên Âu châu mà ra.
Ngày con quái trư ấy tìm được viên trân bảo, nó tỏ ra mừng lắm, hý hửng suốt mấy ngày đêm, quên ăn quên ngủ, nhưng vẫn nhớ nhắn tin với cô bồ châu Úc. Lũ người mà hắn kết giao đều tỏ ý bắt hắn phải khao to, nhưng một khi con quái trư này muốn tránh, nào ai có thể cưỡng được hắn? Cũng may là hắn không có trốn mà chỉ tránh thôi. Hắn hẹn đến ngày đại thọ, hắn sẽ phát thiệp anh hùng đi khắp tứ xứ mà hiệu triệu nhân sĩ thiên hạ đến tư gia để cùng mở tiệc.
Ngày rộng tháng dài đã trôi qua, mỗ không có mong ước gì hơn. Đứa con vốn lưu lạc nơi đất khách quê người cũng chẳng thể về mà chung vui được. Nhưng lẽ nào vì thế mà hắn không đánh trống mở cờ, không khao mừng đại thọ đôi mươi?
Đương lúc đói lòng, ta đem bụng dạ ra mà viết vậy, mong rằng hắn đọc được mà y lời ta, mời đủ quan viên hai trăm họ đến cùng chung vui.
Ở Thủ Lệ có con quái trư, cao hơn hai trượng, chân to tựa chân voi, biến hóa thì chẳng khôn lường nhưng khi đi thì ầm ầm như mưa, lại thường ăn nộm bò khô, bánh bột lọc nên ai ai cũng thấy tầm thường.
Con quái trư ấy dung mạo như người, đi ven bờ hồ Thủ Lệ chọn chỗ đất bằng phẳng mà hẻo lánh để định cư, sau biến thành người, biết nói năng, dần dần lớn lên, tốt nghiệp tú tài rồi đậu Đại học. Y thường nhận kết giao bạn bè cả gái lẫn trai, hay rủ rê đàn đúm chơi bời, lại có cả một cô bồ tận bên Úc châu. Hai kẻ này thường thư qua, mail lại với nhau, dẫu tình nghĩa không sâu như nước Đông Hải thì cũng cao tựa núi Nùng.
Con quái Trư ấy từ khi hóa thành người, lại nhân chuyện đỗ đại học, bèn lấy tên là Đỗ Quốc Trung, ý rằng đỗ trường trong nước, chứ không phải trường nước ngoài. Ấy thế mà cái trường của hắn cũng chẳng bình thường. Ra vào thường phải có lệnh bài, ai ai đều cưỡi chiến mã, vàng bạc rủng rỉnh.
Có hòn đá lạ tên là Iphone, con quái trư này dùng để hô phong hoán vũ, gọi bạn kêu bè. Hòn đá này hình dạng bằng phẳng, trơn tuột, trên lại có ký hiệu lạ hình quả táo bị cắn, nghe đồn là do ma pháp của bên Âu châu mà ra.
Ngày con quái trư ấy tìm được viên trân bảo, nó tỏ ra mừng lắm, hý hửng suốt mấy ngày đêm, quên ăn quên ngủ, nhưng vẫn nhớ nhắn tin với cô bồ châu Úc. Lũ người mà hắn kết giao đều tỏ ý bắt hắn phải khao to, nhưng một khi con quái trư này muốn tránh, nào ai có thể cưỡng được hắn? Cũng may là hắn không có trốn mà chỉ tránh thôi. Hắn hẹn đến ngày đại thọ, hắn sẽ phát thiệp anh hùng đi khắp tứ xứ mà hiệu triệu nhân sĩ thiên hạ đến tư gia để cùng mở tiệc.
Ngày rộng tháng dài đã trôi qua, mỗ không có mong ước gì hơn. Đứa con vốn lưu lạc nơi đất khách quê người cũng chẳng thể về mà chung vui được. Nhưng lẽ nào vì thế mà hắn không đánh trống mở cờ, không khao mừng đại thọ đôi mươi?
Đương lúc đói lòng, ta đem bụng dạ ra mà viết vậy, mong rằng hắn đọc được mà y lời ta, mời đủ quan viên hai trăm họ đến cùng chung vui.
Du Xuân Chiếu
Thuở trước có tiết Trung Thu, mấy lần định dạo chơi. Tiết Noel vài lần định hội họp, há nào phải là phường lông bông, hứng lên mà chạy khắp Hà Thành, tự ý mà rong chơi? Làm như thế cốt để giải tỏa căng thẳng, chọn chỗ mà tiêu tiền, tạo động lực mà học tập. Trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có tiện thì đi, cho nên việc ăn uống thường xuyên, bạn bè vui vẻ.
Thế mà nhiều kẻ lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo dịp Trung Thu, Dương Tiết mà cứ cam phận ngồi nhà, đến nỗi đường truyền tắc nghẽn, nước điện tổn hao, muôn người ủ rũ. Ta rất đau đớn, không thể không cất lời.
Huống chi mùa Xuân là tết của muôn hoa, dù có chút nắng gắt, nhưng được cái khí thế của đất trời, là chính giữa của tứ thời bát tiết, là mùa đốt pháo ngầm, đánh tổ tôm sóc đĩa. Tiện nghi hạch toán cuối năm. Mùa này nghỉ nhiều mà dàn trải, tiền không nhiều nhưng cũng rủng rỉnh, đường không vắng nên rất đông vui, náo nhiệt. Xem khắp bốn mùa quanh năm, thực là mùa nghỉ ngơi, giải trí, đúng là thời khắc thưởng trà đàm đạo.
Ta muốn nhân tiết ấy mà ngao du, ý các người thế nào?
[Kính lạy Lý Triều Thái Tổ Hoàng Đế, con đạo văn của ngài !]
Kỷ Sửu niên Chúc thư
Di Chúc năm Kỷ Sửu 2009
Cuộc vui chơi, giải trí của bạn bè ta phải trải qua nhiều thời kỳ, phải lê la nhiều hơn nữa, song nhất định thú vị thêm bội phần.
Đó là điều chắc chắn.
Tôi có ý định đến ngày nào đó sẽ đi tới nhà tất cả mọi người để hàn huyên với anh chị em, cán bộ và học sinh của mình. Thăm hỏi các cụ phụ lão, các bạn đoàn viên và nhi đồng yêu quý vẫn ngày đêm đập phá cùng chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt anh em bạn bè mà cảm ơn gia quyến mọi người đã giúp đỡ chúng ta ăn chơi nhảy múa trong một năm qua, cảm ơn các quán trà, cafe, tiệm ăn đã moi tiền của chúng ta.
*
**
Ông Nguyễn Công Trứ ở trỏng là người làm thơ rất nổi tiếng từng có câu :"Nam nhi sinh tử yếu vi kỳ - Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di", hiểu nôm ra là làm trai phải chơi bạo trong trời đất, chớ có chờ bè bạn nó rủ rồi mới đi.
Năm nay Kỷ Sửu, tôi qua tuổi 19, đã là lớp thanh niên 2.0 nhưng tinh thần, đầu óc vẫn ôm khư khư giấy mực bút nghiên. Khi người ta đã ngoài 18 tuổi thì có đủ mọi quyền, làm gì tùy ý, điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán được tôi còn vui chơi với bạn bè, còn lăng xăng được mấy xuân nữa?
Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi chẳng lăng xăng được nữa mà ngẫm lại, thì cả mọi người, cả tôi đều đỡ khỏi hụt hẫng, có điều mà nhớ lại vậy.
TRƯỚC HẾT NÓI VỀ HỌC. Nhờ có giáo trình đổi mới, quy trình giảng dạy, kiểm tra cũng tân tiến mà anh em ngày càng trượt nhiều hơn. Thế cho nên từ khi đi học cho đến nay, anh em thường chủ trương học cho qua là chính, lận đật pass hết môn này đến môn khác, vượt qua mặc cảm này đến mặc cảm khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực quý của anh em ta. Các anh em từ Kiến Trúc, Kinh Tế đến Giao Thông đều phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Đã học là phải học đủ các môn, thường xuyên đổi giáo trình, củng cố phát triển kiến thức mà thằng khác đang học, phải có tinh thần thi hộ xuyên trường, xuyên lớp.
Bạn bè ta là học nhiều trường, mỗi trường đều có quy chế riêng nhưng nhiều lúc vẫn thi hộ nhau được, anh em chớ có bỏ qua cơ hội mà để rồi nuối tiếc ngàn thu.
BẠN BÈ ta nói chung là nuột. Mọi việc ăn chơi đều không quản đường xa, có chí quỵt tiền. Anh em ta phải chăm lo giáo dục đạo đức ăn chơi, đào tạo nhau thành những dân chơi có cả lượng và chất.
Bồi dưỡng thế hệ dân chơi cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết.
CHA MẸ chúng ta ở nội đô cũng như ngoại thị, bao năm chịu đựng gian khổ, bị khủng hoảng kinh tế, lạm phát đe dọa mà vẫn kiên cường, vẫn nuôi chúng ta ăn học. Từ ngày anh em ta chơi với nhau, các bậc phụ huynh vui mừng một phần mà lo lắng đến chín chục phần. Vậy nên mỗi người đều phải răn lại mình, sao cho đỡ phiền lòng bác mẹ.
Cuộc Kháng Chiến Kiến Ái(Tức là công cuộc kiến thiết tình yêu) của anh em ta mỗi người mỗi khác. Anh em ta có thể hy sinh nhiều người, đánh mất nhiều việc nhưng dù sao cũng là vì điều mà mình nhất mực mong muốn.
Còn thân, còn xác, còn tiền
Nhưng không bạn gái, ưu phiền nghìn năm !
Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, anh em ta nhất định sẽ hoàn thành mục tiêu của riêng mình, để giặc trầm cảm nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta, đồng bào ta sẽ vui vẻ mà ngắm pháo hoa. Anh chị em ta sẽ tươi cười mỗi khi xuống phố, sẽ lặng yên mỗi lúc nằm mơ.
VỀ VIỆC RIÊNG.
Suốt năm tôi dốc lòng mà phụng sự trường lớp, phụng sự các bạn. Nay dù biết sắp phải chia tay năm cũ, tôi cũng không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là chưa phục vụ được nhiều hơn, nhiều hơn nữa.
Sau khi Kỷ Sửu đi rồi, chớ có moi móc những gì tôi làm sai để khỏi lãng phí thì giờ, tiền bạc.
*
**
Cuối cùng, tôi xin để lại muôn vàn dòng ghi chú cho toàn bạn, toàn thể anh chị em, các cụ phụ lão, các em nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí bằng hữu thế giới, các lưu học sinh Việt Nam.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là :"Đêm nay tôi được toại nguyện, việc của các đồng chí thì mặc kệ, ai nhờ vả gì thì ra giêng"
Hà Nội, ngày 13 tháng 02 năm 2009
Tử Hà
Cuộc vui chơi, giải trí của bạn bè ta phải trải qua nhiều thời kỳ, phải lê la nhiều hơn nữa, song nhất định thú vị thêm bội phần.
Đó là điều chắc chắn.
Tôi có ý định đến ngày nào đó sẽ đi tới nhà tất cả mọi người để hàn huyên với anh chị em, cán bộ và học sinh của mình. Thăm hỏi các cụ phụ lão, các bạn đoàn viên và nhi đồng yêu quý vẫn ngày đêm đập phá cùng chúng ta.
Kế theo đó, tôi sẽ thay mặt anh em bạn bè mà cảm ơn gia quyến mọi người đã giúp đỡ chúng ta ăn chơi nhảy múa trong một năm qua, cảm ơn các quán trà, cafe, tiệm ăn đã moi tiền của chúng ta.
*
**
Ông Nguyễn Công Trứ ở trỏng là người làm thơ rất nổi tiếng từng có câu :"Nam nhi sinh tử yếu vi kỳ - Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di", hiểu nôm ra là làm trai phải chơi bạo trong trời đất, chớ có chờ bè bạn nó rủ rồi mới đi.
Năm nay Kỷ Sửu, tôi qua tuổi 19, đã là lớp thanh niên 2.0 nhưng tinh thần, đầu óc vẫn ôm khư khư giấy mực bút nghiên. Khi người ta đã ngoài 18 tuổi thì có đủ mọi quyền, làm gì tùy ý, điều đó cũng không có gì lạ.
Nhưng ai mà đoán được tôi còn vui chơi với bạn bè, còn lăng xăng được mấy xuân nữa?
Vì vậy, tôi để sẵn mấy lời này, phòng khi tôi chẳng lăng xăng được nữa mà ngẫm lại, thì cả mọi người, cả tôi đều đỡ khỏi hụt hẫng, có điều mà nhớ lại vậy.
TRƯỚC HẾT NÓI VỀ HỌC. Nhờ có giáo trình đổi mới, quy trình giảng dạy, kiểm tra cũng tân tiến mà anh em ngày càng trượt nhiều hơn. Thế cho nên từ khi đi học cho đến nay, anh em thường chủ trương học cho qua là chính, lận đật pass hết môn này đến môn khác, vượt qua mặc cảm này đến mặc cảm khác.
Đoàn kết là một truyền thống cực quý của anh em ta. Các anh em từ Kiến Trúc, Kinh Tế đến Giao Thông đều phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí như giữ gìn con ngươi của mắt mình.
Đã học là phải học đủ các môn, thường xuyên đổi giáo trình, củng cố phát triển kiến thức mà thằng khác đang học, phải có tinh thần thi hộ xuyên trường, xuyên lớp.
Bạn bè ta là học nhiều trường, mỗi trường đều có quy chế riêng nhưng nhiều lúc vẫn thi hộ nhau được, anh em chớ có bỏ qua cơ hội mà để rồi nuối tiếc ngàn thu.
BẠN BÈ ta nói chung là nuột. Mọi việc ăn chơi đều không quản đường xa, có chí quỵt tiền. Anh em ta phải chăm lo giáo dục đạo đức ăn chơi, đào tạo nhau thành những dân chơi có cả lượng và chất.
Bồi dưỡng thế hệ dân chơi cho đời sau là một việc rất quan trọng và cần thiết.
CHA MẸ chúng ta ở nội đô cũng như ngoại thị, bao năm chịu đựng gian khổ, bị khủng hoảng kinh tế, lạm phát đe dọa mà vẫn kiên cường, vẫn nuôi chúng ta ăn học. Từ ngày anh em ta chơi với nhau, các bậc phụ huynh vui mừng một phần mà lo lắng đến chín chục phần. Vậy nên mỗi người đều phải răn lại mình, sao cho đỡ phiền lòng bác mẹ.
Cuộc Kháng Chiến Kiến Ái(Tức là công cuộc kiến thiết tình yêu) của anh em ta mỗi người mỗi khác. Anh em ta có thể hy sinh nhiều người, đánh mất nhiều việc nhưng dù sao cũng là vì điều mà mình nhất mực mong muốn.
Còn thân, còn xác, còn tiền
Nhưng không bạn gái, ưu phiền nghìn năm !
Dù khó khăn, gian khổ đến mấy, anh em ta nhất định sẽ hoàn thành mục tiêu của riêng mình, để giặc trầm cảm nhất định phải cút khỏi nước ta. Tổ quốc ta, đồng bào ta sẽ vui vẻ mà ngắm pháo hoa. Anh chị em ta sẽ tươi cười mỗi khi xuống phố, sẽ lặng yên mỗi lúc nằm mơ.
VỀ VIỆC RIÊNG.
Suốt năm tôi dốc lòng mà phụng sự trường lớp, phụng sự các bạn. Nay dù biết sắp phải chia tay năm cũ, tôi cũng không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là chưa phục vụ được nhiều hơn, nhiều hơn nữa.
Sau khi Kỷ Sửu đi rồi, chớ có moi móc những gì tôi làm sai để khỏi lãng phí thì giờ, tiền bạc.
*
**
Cuối cùng, tôi xin để lại muôn vàn dòng ghi chú cho toàn bạn, toàn thể anh chị em, các cụ phụ lão, các em nhi đồng.
Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí bằng hữu thế giới, các lưu học sinh Việt Nam.
Điều mong muốn cuối cùng của tôi là :"Đêm nay tôi được toại nguyện, việc của các đồng chí thì mặc kệ, ai nhờ vả gì thì ra giêng"
Hà Nội, ngày 13 tháng 02 năm 2009
Tử Hà
Hồi ký - Hồi thứ nhất
Hồi ký là hồn núi sông, là tinh túy của đời người. Kẻ nào biết ghi Hồi ký từ sớm thì càng có cơ hội văn hiến. Kẻ nào biết quý trọng Hồi ký càng có cơ hội trường tồn. Thành đấy, bại đấy. Chẳng vì thành mà kiêu, chẳng vì bại mà nản. Cứ bền lòng mà tiến tới, nhìn lại Hồi ký như ngắm mình trong một tấm gương. Ngắm để vẽ, để tô, để sửa. Ắt khuôn mặt càng dễ ưa, dễ coi. Nhân tình nằm ở đó, thế thái cũng ở đó. Chẳng thế mà già trẻ gái giai quen biết ta đều chăm chăm đọc trộm Hồi ký của ta!
*
* *
Hồi thứ nhất.
Mùa thu tháng tám ra đời
Tên ta tuy xấu vẫn ngời ngời vang
Tiết lập Thu, tháng 8 năm Canh Ngọ, trời khô hanh, cỏ cây chuyển sắc vàng, báo hiệu thời kỳ bao cấp đã mạt vận, đất nước chuyển sang vận hội mới. Khi ấy, ta sinh ra đời!
Theo lẽ thường tình, mỗi khi một đứa trẻ sinh ra, mọi người trong nhà đều lấy làm vui mừng lắm lắm. Dĩ nhiên, ta cũng đâu phải ngoại lệ đâu, ai nấy cũng đều vui cả. Thế rồi mọi người mới kiếm cho ta một cái tên, tiêu chí cũng chẳng có gì. Một là để có cái mà làm giấy tờ, không thì sau này không học hành gì được. Hai là cho bằng bạn bằng bè, giống anh giống em, cũng có cái gọi là danh phận, để không nhầm với cái khoai, cái sắn. Ừ thì tên xấu dễ nuôi, tên hay thì sớm chết. Ấy thế nên tên của ta xấu lắm lắm, ngày xưa đức Khổng Tử đã có nhời rồi:
“ Ngô vị kiến hiếu Đức (Ta chẳng thấy ai yêu quý thằng Đức cả) “
Ông bà ta lại còn có câu “Dĩ Đức báo oán (Đem thằng Đức đi mà báo oán)”
Ấy, cái tên của ta xấu xa là vậy đấy ! Mô phật !
Nhưng cái tên xấu để dễ nuôi cũng chỉ là một nhẽ thôi. Cái chính là đều do ông cụ thân sinh ra ta và ông nội ta cả. Ý bề trên mà, nào ai dám can ngăn ! Chả là ngày trước đi tình nguyện quân ở Campuchia, ông cụ thân sinh ra ta và các chiến hữu thân nhau lắm lắm. Nghe cụ kể lại rằng có thuở bên đó khô cạn, thiếu nước uống phải lấy nước tiểu ra mà chế lại lần nữa. Khi ấy có một chú tên Bình lấy trộm của một chú tên Huy. Đấy, các cụ thân nhau là vậy đấy, đến nước tiểu còn trộm của nhau cơ mà!
Ấy đấy, không nói đến chuyện các cụ thân nhau thì không thể làm làm tỏ được cái tên tôi. Mà nói ra thì lại dông dài. Chả là vì mấy cụ chơi thân với nhau, nên đặt tên con cũng làm sao cho nó đủ thân thì mới thôi. Nữ thì đã có mấy chị tên là Nga, Mỹ, Ý. Nam thì có mấy anh là Trung, Pháp, ông anh ruột tôi là Nhật. Vậy mà tên tôi cũng phát xít theo để làm đối trọng với phe kia, thế nên tôi tên là Đức !
Chính ra là ban đầu ông nội tôi, một nhà nho đức cao vọng trọng đặt cho tôi cái tên ấy với nghĩa khác (Tôi cũng chả biết là nghĩa gì sất). Nhưng rồi hóa ra cái tên tôi cải biên thành thế này, thôi thì một phen làm phát xít vậy !
Xin quý anh chị em chớ có đem tên cúng cơm tôi ra mà trêu tôi nhé. Anh chị em mà có lòng, xin chờ xem tiếp hồi sau :
Gần một tuổi, kiếp cầm ca
Đêm dài ngày ngắn, Tử Hà biết đi !
*
* *
Hồi thứ nhất.
Mùa thu tháng tám ra đời
Tên ta tuy xấu vẫn ngời ngời vang
Tiết lập Thu, tháng 8 năm Canh Ngọ, trời khô hanh, cỏ cây chuyển sắc vàng, báo hiệu thời kỳ bao cấp đã mạt vận, đất nước chuyển sang vận hội mới. Khi ấy, ta sinh ra đời!
Theo lẽ thường tình, mỗi khi một đứa trẻ sinh ra, mọi người trong nhà đều lấy làm vui mừng lắm lắm. Dĩ nhiên, ta cũng đâu phải ngoại lệ đâu, ai nấy cũng đều vui cả. Thế rồi mọi người mới kiếm cho ta một cái tên, tiêu chí cũng chẳng có gì. Một là để có cái mà làm giấy tờ, không thì sau này không học hành gì được. Hai là cho bằng bạn bằng bè, giống anh giống em, cũng có cái gọi là danh phận, để không nhầm với cái khoai, cái sắn. Ừ thì tên xấu dễ nuôi, tên hay thì sớm chết. Ấy thế nên tên của ta xấu lắm lắm, ngày xưa đức Khổng Tử đã có nhời rồi:
“ Ngô vị kiến hiếu Đức (Ta chẳng thấy ai yêu quý thằng Đức cả) “
Ông bà ta lại còn có câu “Dĩ Đức báo oán (Đem thằng Đức đi mà báo oán)”
Ấy, cái tên của ta xấu xa là vậy đấy ! Mô phật !
Nhưng cái tên xấu để dễ nuôi cũng chỉ là một nhẽ thôi. Cái chính là đều do ông cụ thân sinh ra ta và ông nội ta cả. Ý bề trên mà, nào ai dám can ngăn ! Chả là ngày trước đi tình nguyện quân ở Campuchia, ông cụ thân sinh ra ta và các chiến hữu thân nhau lắm lắm. Nghe cụ kể lại rằng có thuở bên đó khô cạn, thiếu nước uống phải lấy nước tiểu ra mà chế lại lần nữa. Khi ấy có một chú tên Bình lấy trộm của một chú tên Huy. Đấy, các cụ thân nhau là vậy đấy, đến nước tiểu còn trộm của nhau cơ mà!
Ấy đấy, không nói đến chuyện các cụ thân nhau thì không thể làm làm tỏ được cái tên tôi. Mà nói ra thì lại dông dài. Chả là vì mấy cụ chơi thân với nhau, nên đặt tên con cũng làm sao cho nó đủ thân thì mới thôi. Nữ thì đã có mấy chị tên là Nga, Mỹ, Ý. Nam thì có mấy anh là Trung, Pháp, ông anh ruột tôi là Nhật. Vậy mà tên tôi cũng phát xít theo để làm đối trọng với phe kia, thế nên tôi tên là Đức !
Chính ra là ban đầu ông nội tôi, một nhà nho đức cao vọng trọng đặt cho tôi cái tên ấy với nghĩa khác (Tôi cũng chả biết là nghĩa gì sất). Nhưng rồi hóa ra cái tên tôi cải biên thành thế này, thôi thì một phen làm phát xít vậy !
Xin quý anh chị em chớ có đem tên cúng cơm tôi ra mà trêu tôi nhé. Anh chị em mà có lòng, xin chờ xem tiếp hồi sau :
Gần một tuổi, kiếp cầm ca
Đêm dài ngày ngắn, Tử Hà biết đi !
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)